ThS. Nguyễn Văn Phương
Trường Sĩ quan Lục quân 2, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy được Dự thảo văn kiện Đại hội XIV xác định với nội dung toàn diện và tư duy chiến lược sâu sắc, phản ánh bước phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về quốc phòng – an ninh trong tình hình mới. Trên cơ sở kế thừa thực tiễn và tổng kết lý luận, bài viết phân tích quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống tư duy của Đảng về bảo vệ Tổ quốc một cách chủ động, toàn diện, gắn với yêu cầu ứng phó hiệu quả trước các nguy cơ an ninh truyền thống và phi truyền thống. Qua đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm tiếp tục thể chế hóa, hiện thực hóa chủ trương trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất nước; đồng thời, góp phần bổ sung, hoàn thiện nội dung Dự thảo các văn kiện theo hướng nâng cao năng lực dự báo và thế chủ động chiến lược của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới.
Từ khóa: Bảo vệ Tổ quốc từ sớm; từ xa; từ khi nước chưa ngụy; tư duy lý luận; quốc phòng – an ninh.
1. Đặt vấn đề
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược sâu sắc, phản ánh sự kết tinh giữa lý luận và thực tiễn sau 40 năm đổi mới. Trong đó, chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy không chỉ được khẳng định như một định hướng mang tính nền tảng cho chiến lược quốc phòng – an ninh mà còn cho thấy bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng, phù hợp với những chuyển động nhanh chóng của tình hình thế giới hiện nay.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển, nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc đã được định hình ngày càng hoàn thiện, bao trùm cả tư duy chiến lược, phương thức tổ chức lực lượng, không gian triển khai và cơ chế hành động. Những nội dung này không chỉ góp phần định hướng chính sách quốc phòng – an ninh hiện đại mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng thế chủ động chiến lược trong bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
2. Sự phát triển trong tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy
2.1. Về tư duy chiến lược và phương châm hành động
Trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kế thừa có chọn lọc những thành tựu lý luận qua các thời kỳ. Bước chuyển đổi căn bản từ tư duy “ứng phó tình huống” sang “chủ động phòng ngừa từ sớm, từ xa” đã đánh dấu một giai đoạn mới trong định hình tư duy chiến lược quốc phòng – an ninh của Đảng.
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, từ Đại hội VI đến Đại hội XI của Đảng, các văn kiện nghị quyết luôn xác định phải nâng cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu hành động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động bất ngờ. Yêu cầu “chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến đột biến bất lợi” tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) đã thể hiện rõ bước tiến trong tư duy phòng ngừa chiến lược. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) và được tiếp tục khẳng định, cụ thể hóa sâu sắc tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII), tư tưởng “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy” đã trở thành trụ cột lý luận trong chiến lược bảo vệ quốc gia. Đây không chỉ là một nguyên tắc chỉ đạo hành động mà còn là định hướng tư duy xuyên suốt, thống nhất từ nhận thức đến thực tiễn triển khai của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Chủ trương này thể hiện rõ bản lĩnh tư duy chiến lược của Đảng trong điều kiện hội nhập và biến động toàn cầu, khi các nguy cơ xung đột không còn chỉ đến từ biên giới lãnh thổ mà có thể khởi phát từ các yếu tố phi truyền thống, như: tấn công mạng, chiến tranh thông tin, thao túng thị trường, lũng đoạn dư luận. Trong bối cảnh đó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa chính là sự cụ thể hóa tầm nhìn “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, là biểu hiện của năng lực dự báo, phòng ngừa rủi ro và hành động có tính dẫn dắt chiến lược, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, làm tiền đề cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
2.2. Về nhận thức lý luận
Nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa thể hiện rõ sự chuyển biến sâu sắc từ tư duy “phòng thủ quân sự” truyền thống sang tư duy “phòng ngừa chiến lược” hiện đại; từ thế bị động ứng phó sang chủ động tạo thế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Sự chuyển đổi này không chỉ là một bước điều chỉnh chiến lược mà còn là một bước tiến nhận thức có tính đột phá về chất trong cách tiếp cận nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Không dừng lại ở yêu cầu ngăn ngừa chiến tranh, xung đột vũ trang, tư duy mới của Đảng còn mở rộng phạm vi bảo vệ Tổ quốc ra toàn bộ các lĩnh vực then chốt của đời sống chính trị – xã hội, bao gồm: bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc, giữ vững thành quả cách mạng, bảo đảm an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh văn hóa, tư tưởng; đồng thời, chủ động phát hiện và ngăn chặn các yếu tố gây mất ổn định từ bên trong. Quan điểm bảo vệ Tổ quốc được tiếp cận một cách toàn diện, đa chiều, liên ngành và gắn chặt với phát triển bền vững.
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV tiếp tục khẳng định rõ định hướng chiến lược này, nhấn mạnh mục tiêu cao nhất của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển”; “Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”1. Đây là sự cụ thể hóa tư duy “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong điều kiện mới, hàm chứa năng lực cảnh báo sớm, dự báo chiến lược và khả năng điều phối đồng bộ giữa các lĩnh vực quốc phòng – an ninh, đối ngoại, kinh tế – xã hội.
2.3. Về lực lượng và không gian chiến lược.
Trên cơ sở xác lập quan điểm nhất quán, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, nhận thức lý luận của Đảng qua các kỳ Đại hội đã từng bước hoàn thiện về cấu trúc lực lượng và mở rộng phạm vi không gian chiến lược. Đảng khẳng định vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ giữa “thế trận lòng dân” với thế trận quốc phòng – an ninh và đối ngoại.
Nhận thức này cũng bao hàm sự chủ động về đối sách lực lượng trong tình hình mới. Đó là sự phối hợp ngày càng sâu rộng giữa các lực lượng trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, là sự chủ động tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, qua đó, mở rộng mặt trận ngoại giao trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đặc biệt, từ thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, Đảng đã từng bước mở rộng nhận thức về không gian chiến lược, không chỉ giới hạn ở biên giới lãnh thổ mà bao gồm các chiều cạnh mới, như: không gian mạng, không gian kinh tế, không gian thông tin truyền thông, không gian ngoại giao pháp lý, thậm chí cả không gian vũ trụ và trí tuệ nhân tạo (AI).
Việc xác lập nhận thức về không gian chiến lược đa chiều này phản ánh rõ tầm nhìn của Đảng trước các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, trong đó nổi bật là chiến tranh mạng, chiến tranh pháp lý, thao túng dư luận, tấn công cơ sở dữ liệu, chiến tranh kinh tế và sử dụng vũ khí công nghệ cao. Từ đó, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nhiệm vụ quân sự, quốc phòng theo nghĩa truyền thống mà trở thành một chiến lược tổng hợp, toàn diện, yêu cầu sự chuẩn bị kỹ lưỡng về thể chế, con người, công nghệ, quan hệ quốc tế và thế trận an ninh nhân dân trong mọi không gian.
2.4. Về phương thức triển khai
Nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa không chỉ dừng ở cấp độ tư duy chiến lược và định hướng chủ trương mà còn được cụ thể hóa bằng hệ thống phương thức triển khai đồng bộ, toàn diện. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, giữa củng cố tiềm lực nội sinh với phát huy sức mạnh tổng hợp từ bên ngoài; giữa giữ vững ổn định chính trị xã hội trong nước với chủ động hội nhập, đối ngoại đa phương trên trường quốc tế.
Phương thức triển khai chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa được thể hiện trên nhiều phương diện. Trước hết, là tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh cả về vật chất, kỹ thuật, con người và tổ chức, trong đó chú trọng hiện đại hóa quân đội, xây dựng lực lượng công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đồng thời, là việc phát triển đồng bộ thế trận lòng dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân và củng cố niềm tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng.
Bên cạnh đó, Đảng chỉ đạo đẩy mạnh ngoại giao đa phương, tăng cường năng lực hội nhập quốc tế và tranh thủ hiệu quả sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, bạn bè tiến bộ và kiều bào ở nước ngoài. Việc phối hợp chặt chẽ giữa ba trụ cột: quốc phòng – an ninh, đối ngoại và phát triển kinh tế – xã hội không chỉ tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc mà còn góp phần nâng cao vị thế chiến lược của Việt Nam trên trường quốc tế, giúp đất nước chủ động ứng phó hiệu quả với các nguy cơ, thách thức mới, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
3. Thể chế hóa chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy
Chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy đã trở thành định hướng chiến lược có tính chỉ đạo toàn diện trong hệ thống tư duy quốc phòng – an ninh của Đảng. Tuy nhiên, để chủ trương này đi vào chiều sâu và phát huy hiệu quả trong thực tiễn cần tiếp tục được thể chế hóa bằng các chiến lược, chính sách, kế hoạch hành động cụ thể, phù hợp với đặc điểm tình hình mới. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV đặt ra yêu cầu cao hơn về tính chủ động, năng lực cảnh báo sớm, phản ứng nhanh và khả năng phối hợp đa ngành trong triển khai nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách về quốc phòng – an ninh phù hợp với những đặc điểm mới của môi trường chiến lược và các hình thái xung đột hiện đại.
Trong bối cảnh chiến tranh không gian mạng, chiến tranh pháp lý, tấn công thông tin và các hoạt động can thiệp phi truyền thống gia tăng mạnh mẽ, việc cập nhật và xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ, linh hoạt là điều kiện tiên quyết để triển khai chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa một cách chủ động và hiệu quả. Hệ thống pháp luật hiện hành cần được rà soát, sửa đổi, bổ sung nhằm bao quát đầy đủ các lĩnh vực mới, như: an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu quốc gia, chủ quyền số, an ninh kinh tế số, AI, công nghệ quốc phòng hiện đại và cả không gian vũ trụ. Bên cạnh đó, cần làm rõ vai trò phối hợp và phân cấp trách nhiệm giữa các lực lượng chức năng, giữa trung ương và địa phương, bảo đảm thống nhất trong chỉ đạo nhưng linh hoạt trong điều hành. Đồng thời, tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội trong việc thực thi các quy định pháp luật về quốc phòng – an ninh để bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả và đồng thuận xã hội cao.
Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu, phân tích, dự báo chiến lược và cảnh báo sớm để chủ động ứng phó với các tình huống phức tạp, bất ngờ.
Trong điều kiện toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt và tính chất đan xen của các mối đe dọa an ninh truyền thống, phi truyền thống ngày càng rõ nét, năng lực phân tích và dự báo chiến lược trở thành một thành tố cấu thành sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan nghiên cứu chiến lược cần được đầu tư mạnh mẽ cả về nhân lực, cơ sở dữ liệu và công nghệ phân tích dựa trên nền tảng AI, học máy và phân tích dữ liệu lớn. Đồng thời, cần thiết lập các cơ chế chia sẻ thông tin, kết nối giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quốc hội, lực lượng vũ trang, viện nghiên cứu và các tổ chức khoa học – công nghệ để tạo thành mạng lưới phân tích đa ngành, liên kết giữa lý luận và thực tiễn. Việc nâng cao năng lực cảnh báo sớm không chỉ giới hạn ở lĩnh vực quốc phòng – an ninh mà còn cần được mở rộng sang kinh tế, năng lượng, môi trường, công nghệ và ngoại giao, qua đó giúp đất nước chủ động trong mọi kịch bản, không để bị động, bất ngờ trong bất kỳ tình huống nào.
Thứ ba, đẩy mạnh giáo dục quốc phòng – an ninh, giáo dục lý luận chính trị và nâng cao nhận thức toàn dân về yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trong bối cảnh xuất hiện nhiều biểu hiện “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”, việc củng cố nền tảng tư tưởng chính trị cho toàn xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ, trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Cần đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục quốc phòng – an ninh trong nhà trường, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên, công chức theo hướng gần gũi thực tiễn, sát với các tình huống mới của chiến tranh hiện đại và an ninh phi truyền thống. Giáo dục lý luận phải gắn với giáo dục lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm công dân và bản lĩnh chính trị, giúp mỗi người dân nhận thức rõ vai trò của mình trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục chính thống với truyền thông xã hội, sử dụng hiệu quả các nền tảng số, mạng xã hội và truyền thông đại chúng để lan tỏa thông tin tích cực, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và tăng cường sức đề kháng tư tưởng trong xã hội.
Thứ tư, phát triển nguồn lực con người chất lượng cao và ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại là đòi hỏi mang tính chiến lược để hiện thực hóa chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu về một lực lượng bảo vệ quốc gia không chỉ giới hạn trong quân đội hay công an mà phải mở rộng sang đội ngũ chuyên gia công nghệ, kỹ sư dữ liệu, cán bộ đối ngoại, luật sư quốc tế, nhà kinh tế chiến lược… Vì vậy, cần có chính sách thu hút, đào tạo và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo điều kiện để đội ngũ trí thức trẻ tham gia vào các lĩnh vực quốc phòng – an ninh trên nền tảng công nghệ số, AI, Big Data, an ninh mạng. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu khoa học quốc phòng – an ninh, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc phòng, huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân, cộng đồng doanh nghiệp, Việt kiều trí thức và đối tác quốc tế. Sự kết hợp giữa công nghệ hiện đại với nhân lực chất lượng cao sẽ tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trong các không gian chiến lược mới.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại nhằm tạo thế trận bảo vệ Tổ quốc toàn diện trên cả bình diện quốc tế và trong nước.
Trong thời đại cạnh tranh chiến lược đa tầng, địa chính trị biến động nhanh chóng, Đảng ta xác định cần phát huy mạnh mẽ vai trò của ngoại giao quốc phòng, ngoại giao kinh tế và ngoại giao nhân dân. Đối ngoại không chỉ là công cụ kiến tạo môi trường hòa bình mà còn là phương tiện để mở rộng ảnh hưởng, tranh thủ sức mạnh mềm, định vị vai trò và hình ảnh của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Cần thiết lập các cơ chế phối hợp thường xuyên, hiệu quả giữa các cơ quan quốc phòng – an ninh, ngoại giao, kinh tế trong việc xử lý các tình huống phức tạp, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên mọi phương diện: lãnh thổ, pháp lý, thông tin và không gian mạng. Đồng thời, tích cực tham gia các sáng kiến khu vực, chủ động đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển bền vững ở khu vực và thế giới. Từ đó, không chỉ tạo thế “tiến” trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa mà còn nâng cao vị thế chiến lược của đất nước trong cục diện toàn cầu đang định hình lại.
4. Kết luận
Chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy thể hiện bước phát triển mới về tư duy chiến lược, nhận thức lý luận và phương thức tổ chức thực tiễn của Đảng trong tình hình mới. Trên nền tảng kế thừa các quan điểm quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, Đảng đã từng bước hoàn thiện hệ thống tư duy bảo vệ Tổ quốc một cách chủ động, toàn diện, phù hợp với đặc điểm của thời đại số, hội nhập quốc tế và sự biến đổi nhanh chóng của cục diện an ninh khu vực, toàn cầu. Việc thể chế hóa đầy đủ và triển khai hiệu quả chủ trương này không chỉ giúp đất nước giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững mà còn khẳng định bản lĩnh chính trị, năng lực dự báo và năng lực hành động chiến lược của Đảng ta. Đây chính là yếu tố then chốt bảo đảm sự trường tồn của quốc gia – dân tộc trong mọi tình huống, thể hiện tầm cao trí tuệ và sức sống của tư duy lý luận Đảng trong kỷ nguyên mới.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Hà Nội, tr. 219.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2. Bộ Chính trị (2018). Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/4/2018 về Chiến lược quốc phòng Việt Nam.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về yên dân góp phần tăng cường sức mạnh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/06/10/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-yen-dan-gop-phan-tang-cuong-suc-manh-bao-ve-to-quoc-tu-som-tu-xa/
4. Quan điểm của Đảng ta về bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa. https://tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/quan-diem-cua-dang-ta-ve-bao-ve-to-quoc-tu-som-tu-xa/19533.html



