ThS. Nguyễn Thị Oanh
Đại học Quốc gia Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Quản lý trang thiết bị trong các cơ sở giáo dục đại học giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao năng lực đào tạo và hiệu quả nghiên cứu khoa học. Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học và yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc đầu tư, khai thác, bảo trì và tối ưu hóa việc sử dụng trang thiết bị đang đặt ra nhiều thách thức đối với các trường đại học ở Việt Nam. Bài viết phân tích kinh nghiệm quản lý trang thiết bị gắn với đào tạo và nghiên cứu khoa học của ba trường đại học trọng điểm, gồm: Đại học Huế, Đại học Thái Nguyên và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Đại học Quốc gia Hà Nội nhằm nâng cao hiệu quả quản trị trang thiết bị theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển của mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực trong giai đoạn mới.
Từ khoá: Quản lý trang thiết bị; đào tạo; nghiên cứu khoa học; cơ sở giáo dục đại học; Đại học Quốc gia Hà Nội.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) và xu thế tự chủ đại học ở Việt Nam, chất lượng cơ sở vật chất và trang thiết bị trở thành một trong những yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại học. Các trường đại học đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới phương thức quản trị cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trang thiết bị không chỉ là điều kiện để bảo đảm hoạt động giảng dạy, thực hành, thí nghiệm mà còn là nền tảng để triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và chuyển giao tri thức.
Thực tiễn cho thấy, nhiều cơ sở giáo dục đại học còn gặp khó khăn trong quản lý trang thiết bị, như: đầu tư thiếu đồng bộ, phân tán, chưa gắn với quy hoạch và chiến lược phát triển; tình trạng trùng lặp, khai thác chưa hiệu quả; cơ chế sử dụng chung còn hạn chế; công tác bảo trì, kiểm định chưa được thực hiện thường xuyên; đội ngũ kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu; mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý tài sản còn hạn chế. Trong khi đó, một số trường đại học lớn đã từng bước triển khai các mô hình quản lý trang thiết bị theo hướng hiện đại, thông minh gắn với cải cách hành chính, chuyển đổi số và huy động nguồn lực xã hội.
Với kinh nghiệm quản lý trang thiết bị của Đại học Huế, Đại học Thái Nguyên và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh có ý nghĩa thiết thực đối với Đại học Quốc gia Hà Nội trong quá trình hoàn thiện mô hình quản trị trang thiết bị, nhất là trong bối cảnh Đại học Quốc gia Hà Nội đang hướng tới mục tiêu trở thành đại học nghiên cứu, đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
2. Từ thực tiễn quản lý trang thiết bị gắn với đào tạo và nghiên cứu khoa học của một số cơ sở giáo dục đại học
2.1. Đại học Huế
Đại học Huế được thành lập năm 1957, là một trong những cơ sở giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học lớn của cả nước. Hiện nay, Đại học Huế nằm trong nhóm năm cơ sở giáo dục đại học hàng đầu Việt Nam và được xếp hạng trong nhóm 401- 450 đại học hàng đầu châu Á theo QS Asia năm 20241. Với mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực, Đại học Huế có hệ thống đơn vị chức năng, gồm: các trường đại học thành viên, khoa, viện nghiên cứu, trung tâm và các đơn vị chức năng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy và chia sẻ nguồn lực trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Với mô hình này tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đồng thời thúc đẩy sự phối hợp, chia sẻ trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng.
Định hướng phát triển Đại học Huế được xác định theo Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 10/12/2019 của Bộ Chính trị, với mục tiêu xây dựng Đại học Huế trở thành trung tâm giáo dục – đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao và phấn đấu vào tốp 300 trường đại học hàng đầu châu Á2.
Cụ thể hóa các chủ trương trên, chiến lược phát triển Đại học Huế xác định rõ một trong những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là tiến tới tự chủ tài chính, gắn với đầu tư phát triển cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại. Theo đó, Đại học Huế tập trung triển khai các dự án trọng điểm, như: dự án đầu tư tăng cường năng lực cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ chuyển đổi số; dự án tăng cường cơ sở vật chất, chống xuống cấp các công trình từ nguồn thu hợp pháp được giữ lại để đầu tư. Các dự án này góp phần nâng cao năng lực quản trị, chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và hiệu quả hoạt động của Đại học Huế trong giai đoạn phát triển mới.
Về công tác quản lý trang thiết bị gắn với đào tạo và nghiên cứu, Đại học Huế đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tiễn có giá trị, thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, các trường đại học thành viên đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng tài sản công, đặc biệt là trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Hoạt động đầu tư, xây dựng và mua sắm được triển khai theo đúng kế hoạch, định mức và tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo đảm tuân thủ quy trình dự toán ngân sách hằng năm.
Thứ hai, công tác thống kê, kế toán và theo dõi tài sản được thực hiện chặt chẽ. Các đơn vị thành viên tiến hành báo cáo định kỳ, ghi chép sổ sách đầy đủ, xác định và hạch toán giá trị hao mòn tài sản; đồng thời thực hiện việc thanh lý, xử lý tài sản cố định theo đúng quy định của pháp luật. Qua đó, góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài sản công.
Thứ ba, trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ đại học, nhiều trường đại học thành viên đã xây dựng và triển khai các đề án phát triển gắn với quyền tự chủ về tài chính và tổ chức bộ máy. Các quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế tài chính và cơ chế khoán chi được ban hành phù hợp với đặc thù của từng đơn vị, giúp tăng tính chủ động và hiệu quả trong đầu tư, khai thác trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu.
Thứ tư, một số đơn vị đã chủ động cụ thể hóa công tác quản lý trang thiết bị bằng việc ban hành các quy trình nội bộ. Điển hình, Trường Đại học Nông Lâm Huế đã ban hành quy trình mua sắm, cấp phát và quản lý tài sản từ năm 2015, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý trang thiết bị đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, Đại học Huế đã ban hành quy định về công tác quản lý mua sắm tài sản, góp phần hình thành hành lang pháp lý thống nhất trong toàn hệ thống.
Thứ năm, công tác phân cấp, phân quyền trong quản lý, đầu tư và mua sắm trang thiết bị được chú trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Đại học Huế đã giao quyền chủ động cho các đơn vị thành viên trong quyết định đầu tư, mua sắm thiết bị, giúp các trường chủ động cân đối nguồn lực, kịp thời đáp ứng yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cơ chế này phù hợp với xu hướng đổi mới quản lý tài sản công theo hướng tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Từ thực tiễn trên có thể khẳng định, kinh nghiệm của Đại học Huế về việc xây dựng và vận hành hệ thống quản lý tài sản công nói chung, trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu nói riêng gắn chặt với quy hoạch phát triển, bảo đảm tính công khai, minh bạch, đồng thời có cơ chế kiểm soát nội bộ hiệu quả.
2.2. Đại học Thái Nguyên
Đại học Thái Nguyên được thành lập ngày 04/4/1994 theo Nghị định số 31/CP của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở sắp xếp và tổ chức lại các cơ sở đào tạo đại học và dạy nghề trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, gồm: Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, Trường Đại học Nông nghiệp 3 Bắc Thái, Trường Đại học Công nghiệp Thái Nguyên, Trường Đại học Y Bắc Thái và Trường Công nhân Cơ điện Việt Bắc.
Đến nay, Đại học Thái Nguyên có cơ cấu tổ chức, gồm: 7 trường đại học thành viên, 1 trường cao đẳng, 2 phân hiệu tại tỉnh Lào Cai và Hà Giang, 12 trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học cùng nhiều đơn vị trực thuộc khác. Cơ cấu tổ chức đa dạng, đồng bộ đã tạo nền tảng quan trọng cho việc phát huy vai trò của một đại học vùng trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ3.
Trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, Đại học Thái Nguyên đã kiên trì thực hiện các mục tiêu, định hướng lớn của Chính phủ đối với mô hình đại học vùng; đồng thời phát huy hiệu quả thế mạnh trong việc huy động, điều phối tổng hợp các nguồn lực từ các trường thành viên và đơn vị trực thuộc. Trên cơ sở áp dụng các cơ chế, chính sách của Nhà nước, kết hợp với việc phát huy dân chủ, đoàn kết, năng động, sáng tạo của đội ngũ viên chức, người lao động và người học, Đại học Thái Nguyên không ngừng phát triển về quy mô và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học khu vực và đa ngành, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội vùng Trung du, miền núi Bắc Bộ và cả nước.
Chiến lược phát triển Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2021 – 2025, tầm nhìn đến năm 2035 ban hành theo Nghị quyết số 51/NQ-HĐĐHTN ngày 21/12/2021 và được điều chỉnh tại Nghị quyết số 95/NQ-HĐĐHTN ngày 13/12/2023 xác định mục tiêu trọng tâm là đào tạo nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ tiên tiến, đa ngành, đa lĩnh vực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; hướng tới mô hình đại học xanh; tập trung xây dựng một số ngành đào tạo trọng điểm đạt chuẩn khu vực và quốc tế; đổi mới quản trị đại học, phấn đấu đến năm 2045 nằm trong nhóm 500 trường đại học hàng đầu châu Á4.
Để hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược nêu trên, Đại học Thái Nguyên đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý trang thiết bị gắn với đào tạo và nghiên cứu khoa học, thể hiện ở một số kinh nghiệm chủ yếu sau:
Một là, Đại học Thái Nguyên triển khai mô hình quản lý tập trung đối với các trang thiết bị có giá trị lớn và các phòng thí nghiệm trọng điểm. Ban Quản lý cơ sở vật chất chịu trách nhiệm lập kế hoạch đầu tư thiết bị cấp đại học; điều phối việc sử dụng giữa các trường thành viên; giám sát quá trình vận hành và bảo đảm an toàn. Mô hình này góp phần hạn chế trùng lặp đầu tư, tối ưu hóa chi phí và nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng trang thiết bị.
Hai là, công tác xác định nhu cầu đầu tư trang thiết bị được thực hiện trên cơ sở quy trình đánh giá khoa học, gắn với chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo; yêu cầu của các nhóm nghiên cứu; số liệu thống kê về tần suất, hiệu suất sử dụng thiết bị các năm trước; cùng với ý kiến tư vấn, khuyến nghị của hội đồng khoa học các cấp. Cách tiếp cận này giúp bảo đảm đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh lãng phí nguồn lực.
Ba là, Đại học Thái Nguyên chú trọng phát triển đội ngũ kỹ thuật viên – lực lượng trực tiếp quyết định chất lượng vận hành trang thiết bị. Nhà trường thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn về an toàn thiết bị, kỹ năng vận hành trang thiết bị hiện đại và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn với sự tham gia của chuyên gia đến từ doanh nghiệp. Nhờ đó, đội ngũ kỹ thuật viên không chỉ thực hiện tốt công tác bảo trì mà còn hỗ trợ hiệu quả giảng viên, sinh viên trong hoạt động thực hành, thực nghiệm.
Bốn là, Đại học Thái Nguyên đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp trong khai thác, sử dụng trang thiết bị ngoài thời gian học tập chính khóa. Việc cho doanh nghiệp thuê, sử dụng thiết bị góp phần nâng cao hiệu suất khai thác, tạo thêm nguồn thu để tái đầu tư, đồng thời nâng cao năng lực vận hành của đội ngũ cán bộ kỹ thuật và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu ứng dụng. Đây được xem là mô hình phù hợp với yêu cầu đổi mới quản lý, sử dụng tài sản công theo hướng gắn kết với thị trường và giảm thiểu lãng phí nguồn lực.
2.3. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh được thành lập năm 1995, là trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học – công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến, giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Với quy mô trên 640 ha theo mô hình đô thị đại học hiện đại, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh hiện có 8 trường đại học thành viên, 1 viện nghiên cứu, 2 khoa trực thuộc và 25 đơn vị dịch vụ, khoa học – công nghệ. Hằng năm, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đào tạo gần 100.000 người học, với đội ngũ hơn 400 giáo sư, phó giáo sư và hơn 1.300 tiến sĩ5.
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh liên tục được xếp hạng trong nhóm 150 trường đại học hàng đầu châu Á và nhiều năm liền nằm trong nhóm 701-750 trường đại học hàng đầu thế giới. Bên cạnh kết quả nổi bật trong đào tạo, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh còn là trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ lớn của cả nước với hơn 3.000 hợp đồng chuyển giao công nghệ trong giai đoạn 2016-2023, mang lại doanh thu bình quân khoảng 250 tỷ đồng mỗi năm4.
Chiến lược phát triển Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-2030, được phê duyệt tại Quyết định số 1331/QĐ-ĐHQG ngày 13/9/2023, xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh thuộc nhóm 100 cơ sở giáo dục đại học hàng đầu châu Á; đóng vai trò kiến tạo động lực tăng trưởng mới, không gian phát triển mới, nhanh và bền vững cho vùng Đông Nam Bộ và cả nước thông qua đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và gắn kết, đóng góp cho sự phát triển kinh tế bền vững, tiến bộ xã hội, làm giàu thêm kho tàng tri thức nhân loại và nền văn hóa Việt Nam.
Về công tác quản lý tài sản, đặc biệt là trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã hình thành nhiều kinh nghiệm có giá trị thực tiễn, thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, hệ thống quản lý tài sản công được thiết lập đồng bộ, trong đó xác định rõ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước và trách nhiệm quản lý, sử dụng của Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh với tư cách là đơn vị được giao quản lý. Cách tiếp cận này góp phần bảo đảm việc sử dụng tài sản công đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả.
Thứ hai, nội dung quản lý tài sản được cụ thể hóa toàn diện, bao gồm: đăng ký, định giá, thống kê, sử dụng, xử lý, điều chuyển và báo cáo định kỳ. Công tác quản lý được gắn với ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong theo dõi, giám sát tài sản, qua đó nâng cao tính chính xác, kịp thời và minh bạch.
Thứ ba, bên cạnh nguồn hình thành tài sản chủ yếu từ ngân sách nhà nước, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh khuyến khích các đơn vị thành viên chủ động huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư trang thiết bị, nhất là trang thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và đổi mới sáng tạo.
Thứ tư, mục tiêu quản lý tài sản được xác định rõ là nâng cao hiệu quả sử dụng và tập trung nguồn lực cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học. Việc quản lý tài sản được thực hiện gắn với quản lý tài chính theo hướng thống nhất, đồng bộ; chú trọng công tác lập dự toán, kiểm soát chi và quyết toán, hạn chế đầu tư dàn trải, tránh lãng phí.
Thứ năm, việc bố trí, sắp xếp và khai thác tài sản tuân thủ nguyên tắc ưu tiên sử dụng tối đa tài sản hiện có; chỉ thực hiện thuê hoặc mua sắm bổ sung khi thực sự cần thiết. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã xây dựng và vận hành hệ thống “Kho tài sản công” nhằm tập trung quản lý tài sản dôi dư, đồng thời ứng dụng số hóa để tra cứu, điều chuyển và phân bổ lại khi có nhu cầu, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản trong toàn hệ thống.
Từ thực tiễn quản lý của Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cho thấy, công tác quản lý tài sản, đặc biệt là trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu, tổ chức theo hướng đồng bộ, gắn kết chặt chẽ giữa quản lý tài chính, kế hoạch đầu tư và ứng dụng công nghệ thông tin. Mô hình quản lý tập trung linh hoạt của Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh là kinh nghiệm tham khảo có giá trị đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập trong quá trình đổi mới quản trị theo hướng tự chủ và hiện đại hóa.
3. Kinh nghiệm rút ra cho Đại học Quốc gia Hà Nội
Từ kinh nghiệm quản lý trang thiết bị gắn với hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của Đại học Huế, Đại học Thái Nguyên và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, có thể rút ra một số bài học đối với công tác quản lý trang thiết bị tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Những bài học này vừa có ý nghĩa thực tiễn, vừa là cơ sở khoa học góp phần hoàn thiện mô hình quản trị tài sản công trong trong các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt trong bối cảnh đẩy mạnh tự chủ đại học và chuyển đổi số hiện nay.
(1) Xây dựng chiến lược phát triển và quy hoạch đầu tư trang thiết bị gắn chặt với chiến lược phát triển tổng thể của Đại học Quốc gia Hà Nội. Thực tiễn tại Đại học Huế và Đại học Thái Nguyên cho thấy, việc đồng bộ hóa kế hoạch đầu tư trang thiết bị với chiến lược phát triển nhà trường giúp bảo đảm tính dài hạn, tránh đầu tư dàn trải và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. Theo đó, Đại học Quốc gia Hà Nội cần tích hợp nội dung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị vào quy hoạch phát triển các ngành đào tạo, lĩnh vực nghiên cứu trọng điểm; ưu tiên đầu tư cho các nhóm ngành mũi nhọn, các phòng thí nghiệm trọng điểm và các trung tâm nghiên cứu liên ngành.
(2) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công theo hướng phân cấp, phân quyền gắn với thực hiện tự chủ đại học. Kinh nghiệm của Đại học Huế và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cho thấy, việc trao quyền chủ động cho các trường thành viên trong đầu tư, mua sắm và khai thác trang thiết bị góp phần nâng cao tính linh hoạt và kịp thời trong đáp ứng yêu cầu chuyên môn. Đại học Quốc gia Hà Nội có thể vận dụng mô hình này trên cơ sở thiết lập hệ thống quy chế, quy định thống nhất và cơ chế kiểm soát tập trung, bảo đảm phân quyền đi đôi với trách nhiệm giải trình.
(3) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý trang thiết bị. Kinh nghiệm của Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cho thấy, việc xây dựng cơ sở dữ liệu tài sản dùng chung, quản lý số hóa và vận hành các hệ thống hỗ trợ ra quyết định đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng, hạn chế trùng lặp và thất thoát tài sản. Đại học Quốc gia Hà Nội cần nghiên cứu phát triển hệ thống phần mềm quản lý tài sản tập trung, tích hợp với cơ sở dữ liệu đào tạo và nghiên cứu khoa học, bảo đảm việc theo dõi, khai thác và sử dụng trang thiết bị được thực hiện công khai, minh bạch và hiệu quả.
(4) Chú trọng xây dựng và phát triển đội ngũ nhân lực kỹ thuật, cán bộ quản lý trang thiết bị có trình độ chuyên môn cao. Thực tiễn tại các đại học cho thấy, chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định hiệu quả vận hành và khai thác trang thiết bị. Đại học Quốc gia Hà Nội cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ này, đồng thời có cơ chế khuyến khích, đãi ngộ và ghi nhận các sáng kiến trong bảo trì, vận hành và sử dụng hiệu quả trang thiết bị.
(5) Thiết lập cơ chế đánh giá, giám sát và phản hồi thường xuyên đối với hiệu quả sử dụng trang thiết bị. Việc tổ chức kiểm kê, đánh giá định kỳ, kết hợp thu thập ý kiến phản hồi từ giảng viên, sinh viên và các nhóm nghiên cứu sẽ là cơ sở để điều chỉnh kịp thời chính sách đầu tư và phương thức quản lý. Đại học Quốc gia Hà Nội có thể vận dụng mô hình chu trình cải tiến liên tục nhằm bảo đảm quá trình đầu tư, sử dụng và bảo trì trang thiết bị được thực hiện theo quy trình khép kín, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả.
(6) Tăng cường hợp tác, liên kết trong khai thác và sử dụng trang thiết bị dùng chung. Kinh nghiệm của Đại học Huế và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cho thấy, việc sử dụng chung cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm và trang thiết bị nghiên cứu không chỉ nâng cao hiệu suất khai thác mà còn thúc đẩy hợp tác nghiên cứu liên ngành, nâng cao chất lượng đào tạo. Đại học Quốc gia Hà Nội cần xây dựng cơ chế chia sẻ thiết bị trong nội bộ, đồng thời mở rộng hợp tác với doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu bên ngoài để khai thác hiệu quả hơn nguồn lực hiện có.
(7) Gắn kết chặt chẽ quản lý tài sản với quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả đầu ra. Mô hình quản lý của Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cho thấy việc liên thông giữa quản lý tài sản, quản lý ngân sách và kết quả đào tạo, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư. Đại học Quốc gia Hà Nội có thể nghiên cứu áp dụng nguyên tắc “đầu tư theo kết quả”, trong đó chi phí đầu tư, vận hành và bảo trì trang thiết bị được xem xét gắn với chất lượng và số lượng đầu ra của hoạt động đào tạo và nghiên cứu, phù hợp với yêu cầu của cơ chế tự chủ tài chính và quản trị đại học hiện đại.
4. Kết luận
Quản lý trang thiết bị trong các cơ sở giáo dục đại học là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, tác động trực tiếp đến chất lượng đào tạo và năng lực nghiên cứu khoa học. Qua phân tích kinh nghiệm của Đại học Huế, Đại học Thái Nguyên và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh cho thấy, các mô hình quản lý hiệu quả đều có những điểm chung cơ bản, đó là: quản trị gắn với chiến lược phát triển dài hạn; tổ chức khai thác, sử dụng trang thiết bị theo cơ chế dùng chung; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý; xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên nghiệp; đồng thời, tăng cường liên kết, hợp tác với doanh nghiệp và các tổ chức bên ngoài.
Trên cơ sở đó, Đại học Quốc gia Hà Nội cần nghiên cứu, vận dụng linh hoạt các kinh nghiệm, phù hợp với điều kiện thực tiễn và đặc thù của đơn vị, nhằm từng bước hoàn thiện mô hình quản lý trang thiết bị theo hướng hiện đại, hiệu quả và tiệm cận các chuẩn mực quốc tế. Đây là cơ sở quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và bảo đảm sự phát triển bền vững của Đại học Quốc gia Hà Nội trong giai đoạn tới.
Chú thích:
1. Những mốc phát triển của Đại học Huế. https://hueuni.edu.vn/portal/vi/index.php/News/nhung-moc-phat-trien-cua-dai-hoc-hue.html.
2, 3. Đại học Thái Nguyên đặt mục tiêu lọt Top 500 trường đại học hàng đầu châu Á vào năm 2035. https://giaoduc.net.vn/dai-hoc-thai-nguyen-dat-muc-tieu-lot-top-500-truong-dh-hang-dau-chau-a-vao-nam-2035-post252631.
4, 5. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh và các đơn vị thành viên. https://hcmus.edu.vn/dhqg-tp-hcm-va-cac-don-vi-thanh-vien.
6. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đứng top 701 – 750 trong Bảng xếp hạng QS World. https://cete.vnuhcm.edu.vn/dhqg-hcm-dung-top-701-750-trong-bang-xep-hang-qs-world-13-285.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2019). Nghị quyết 54-NQ/TW ngày 10/12/2019 về xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Chính phủ (1994). Nghị định số 31/CP ngày 04/4/1994 của Chính phủ về việc thành lập Đại học Thái Nguyên.
3. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (2023). Quyết định số 1331/QĐ-ĐHQG ngày 13/9/2023 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2021 – 2030.
4. Hội đồng Đại học Huế (2021). Nghị quyết số 75/NQ-HĐĐH ngày 05/11/2021 ban hành Chiến lược phát triển Đại học Huế giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045.
5. Hội đồng Đại học Thái Nguyên (2021). Nghị quyết số 51/NQ-HĐĐHTN ngày 21/12/2021 ban hành Chiến lược phát triển Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2021 – 2025 và tầm nhìn đến năm 2035.
6. Hội đồng Đại học Thái Nguyên (2023). Nghị quyết số 95/NQ-HĐĐHTN ngày 13/12/2023 về việc Điều chỉnh Chiến lược phát triển Đại học Thái Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.



