Hoàn thiện khung chính sách phát triển logistics thông minh trong tiến trình xây dựng nền kinh tế số tại Việt Nam

NCS, ThS. Hà Thị Thu Hằng
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Logistics là ngành dịch vụ có vai trò chiến lược trong công cuộc thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc gia. Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực về chỉ số năng lực cạnh tranh, ngành logistics Việt Nam vẫn đối mặt với những rào cản về chi phí vận hành cao, hạ tầng kết nối thiếu đồng bộ tại một số vùng kinh tế và thách thức trong việc triển khai công nghệ số, áp dụng kỹ thuật số vào trong vận hành. Bài viết đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách cụ thể nhằm phát triển ngành logistics Việt Nam đồng bộ, toàn diện và hiện đại bắt kịp tiến trình xây dựng nền kinh tế số hiện nay.

Từ khóa: Logistics, logistics thông minh, chính sách phát triển, kinh tế số.

1. Đặt vấn đề

Trong các yếu tố tạo nền tảng và thúc đẩy xây dựng nền kinh tế số, logistics thông minh (smart logistics) được xem như mắt xích quan trọng góp phần xây dựng, phát triển nền kinh tế một cách hiệu quả và nhanh chóng. Việc ứng dụng các công nghệ, như: Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), chuỗi khối (Blockchain) và điện toán đám mây (Cloud) đã và đang làm thay đổi phương thức tổ chức, vận hành chuỗi cung ứng ở nhiều quốc gia.

Kể từ sau đại dịch Covid-19, thương mại điện tử ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, trong đó logistics thông minh có ý nghĩa đặc biệt, được xem là huyết mạch của nền kinh tế khi hàng hóa được đẩy mạnh bán lẻ trên các sàn giao dịch điện tử và qua các nền tảng mạng xã hội, khối lượng đơn hàng rất lớn. Theo đó, nhu cầu về kết nối hạ tầng và tối ưu chuỗi cung ứng ngày càng trở nên cấp thiết. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2229/QĐ-TTg ngày 09/10/2025 phê duyệt Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 – 2035, tầm nhìn đến 2050, trong đó nhấn mạnh định hướng chủ yếu về “đẩy mạnh đầu tư xây dựng, hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại, chú trọng hạ tầng giao thông vận tải, hạ tầng thương mại và hạ tầng số”. Quá trình này đòi hỏi cần có các giải pháp về hoàn thiện thể chế pháp luật, tăng cường quản lý nhà nước, có giải pháp đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại, thúc đẩy liên kết vùng trong phát triển dịch vụ logistics, nghiên cứu đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong lĩnh vực logistics.

2. Thực trạng logistics tại Việt Nam hiện nay

a. Về hạ tầng logistics

Hệ thống kết cấu hạ tầng logistics Việt Nam trong năm 2024 ghi nhận sự đầu tư mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa và tăng cường khả năng kết nối. Thị phần vận tải đường bộ chiếm đa số khoảng 61 – 64% đối với hàng hóa trên toàn bộ hệ thống vận tải1. Tính đến tháng 7/2024, tuyến cao tốc Bắc – Nam phía Đông đã đưa vào khai thác 652,8 km, dự kiến hết năm 2025 sẽ thông xe toàn tuyến có chiều dài 2.063 km tạo điều kiện rút ngắn thời gian và tối ưu hóa lộ trình vận chuyển2. Tuy là kênh vận chuyển chiếm tỉ trọng lớn, nhưng kinh phí duy tu, bảo trì hệ thống đường bộ đã được đầu tư mới chỉ đáp ứng được khoảng 40 – 45 %, do đó còn thiếu và chưa đáp ứng nhu cầu. 

Vận tải đường sắt thực hiện khoảng 0,3 – 0,8% thị phần vận chuyển hàng hóa và 0,2 – 0,5% đối với hành khách. Dù đây là hình thức vận chuyển liên tục, có độ an toàn và chính xác cao nhưng chưa phát huy vai trò và đóng góp đúng mức vào hiệu quả vận chuyển toàn quốc. Những năm gần đây, vận tải đường sắt đang được chú ý đầu tư, cải thiện, mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa bằng đường sắt. Vốn đầu tư cho đường sắt chiếm khoảng 3% – 4% tổng số vốn đầu tư cho toàn ngành giao thông vận tải, mức đầu tư này chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành đường sắt. Tuy nhiên, nhìn nhận mặt tích cực, một số tuyến đường sắt đã được cải tạo, nâng cấp, công nhận 9 ga liên vận quốc tế, qua đó, tính kết nối hạ tầng đường sắt được cải thiện, liên kết phát triển dịch vụ logistics trong vận tải hàng hóa, đặc biệt là vận chuyển các mặt hàng như quặng, xăng dầu…3.

Trong lĩnh vực hàng hải, sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển duy trì đà tăng trưởng ổn định; đơn cử như tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển qua các năm có sự chuyển biến tích cực, trong đó cảng Cái Mép – Thị Vải khẳng định vị thế là một trong hai cảng quốc tế lớn nhất cả nước. Hệ thống hạ tầng cảng cạn (ICD) và các trung tâm logistics cũng đang được quy hoạch bài bản tại các địa phương trọng điểm như TP. Hồ Chí Minh nhằm giảm tải cho hệ thống cảng biển và tăng hiệu quả luân chuyển hàng hóa. Tuy nhiên hệ thống cảng, bến thủy nội địa đa phần có quy mô nhỏ, thiếu quản lý chuyên nghiệp, thiết bị xếp dỡ hàng hóa lạc hậu cần được cải thiện nhiều hơn4.

b. Logistics trong các doanh nghiệp thương mại

Các doanh nghiệp đã bắt đầu chú trọng tối ưu hóa chuỗi cung ứng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp logistics nước ta vẫn có quy mô nhỏ, hạn chế về vốn và công nghệ, dẫn đến năng lực cạnh tranh quốc tế còn thấp. Theo đánh giá, có tới 53% doanh nghiệp gặp khó khăn do chi phí đầu tư cho các công nghệ và giải pháp logistics hiện đại vẫn ở mức cao. Ngoài ra, việc thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong quản lý chuỗi cung ứng là rào cản lớn, gây ảnh hưởng đến 62% số doanh nghiệp được khảo sát. Xu thế hiện nay cho thấy ngày càng nhiều các doanh nghiệp chuyển sang sử dụng dịch vụ logistics chuyên nghiệp thay cho việc tự triển khai các hoạt động logistics nội tại nhằm mục đích tối ưu hóa chi phí và hiệu quả logistics5.

c. Tình hình liên kết vùng trong phát triển logistics

Liên kết vùng đang trở thành động lực quan trọng để khai thác tối đa lợi thế của từng địa phương. Tính đến tháng 4/2024, đã có 45 tỉnh, thành phố ban hành “Kế hoạch phát triển dịch vụ logistics địa phương” và 47 địa phương có báo cáo triển khai hoạt động này6. Các hoạt động thúc đẩy liên kết vùng diễn ra sôi động thông qua nhiều hội thảo chuyên sâu, như: Diễn đàn Logistics vùng lần thứ V tại Hải Phòng tập trung vào thúc đẩy chuyển đổi số gắn với liên kết vùng đồng bằng sông Hồng. Đặc biệt, mô hình Khu thương mại tự do (FTZ) đang được nghiên cứu và đề xuất triển khai tại nhiều tỉnh, thành phố, như: Đà Nẵng, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh nhằm tạo ra các cực tăng trưởng có tính kết nối cao, gắn liền với hạ tầng cảng biển, cửa ngõ. 

Mặc dù đang được đẩy mạnh tích cực nhưng liên kết vùng logistics gặp 3 rào cản lớn, đó là:

Thứ nhất, dù đã thành lập các Hội đồng điều phối vùng nhưng “nút thắt” liên kết nội vùng còn nhiều tồn tại như thời gian di chuyển giữa các tỉnh còn nhiều bất cập, dẫn tới khó có sự liên kết các hoạt động nội vùng, chia sẻ hạ tầng kinh tế – xã hội7.

Thứ hai, hệ thống đường sắt chưa phát huy hết vai trò kết nối các trung tâm logistics trọng yếu của vùng, liên vùng và của cả nước. Phần lớn hoạt động vận chuyển logistics vẫn sử dụng đường bộ. Ngoài việc duy trì, cải tạo, mở rộng kết nối theo quy hoạch mạng lưới đường sắt giai đoạn 2021 – 2030, cần có sự đầu tư lớn mạnh để cải tiến chất lượng, tốc độ, kỹ thuật của vận tải đường sắt, bắt kịp với các nước phát triển trên thế giới.

Thứ ba, hạ tầng “lệch pha” làm cản trở kết nối, gây tắc nghẽn trong vận chuyển hàng hóa. Thiếu đồng bộ kết nối giao thông đường bộ, đường thủy và quy hoạch hệ thống trung tâm logistics, hệ thống cảng biển… Ví dụ, hiện mới có kết nối từ cảng Đà Nẵng lên cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi thông qua hệ thống đường chuyên dùng; tại những nơi khác, cảng biển kết nối hệ thống đường bộ thông qua hệ thống đường đô thị phải tuân theo tổ chức giao thông đô thị, thường xuyên xảy ra tắc nghẽn giao thông nội đô7. Kế hoạch triển khai xây dựng hạ tầng chậm, nhỏ lẻ càng khiến các định hướng phát triển không đạt được hiệu quả.

d. Hiện trạng xây dựng hạ tầng số, chuyển đổi số và áp dụng logistics thông minh

Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện hệ thống hạ tầng số với mạng di động băng thông rộng 4G, 5G và kết nối internet phủ sóng toàn quốc, tạo nền tảng cho logistics thông minh. Thị trường ghi nhận sự phát triển của các giải pháp công nghệ có chi phí hợp lý và tính linh hoạt cao. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ hiện tại chủ yếu vẫn tập trung vào các mảng tài chính, kế toán và bán hàng, trong khi các phần mềm đặc thù cho ngành logistics vẫn chưa được quan tâm phát triển tương xứng với nhu cầu thị trường.

Quá trình chuyển đổi số trong ngành nhìn chung vẫn còn chậm và chưa đồng đều. Có tới 90,5% doanh nghiệp dịch vụ logistics mới chỉ đáp ứng ở mức độ 1 và 2 của tiến trình số hóa (hiện diện – cung cấp thông tin cơ bản, tương tác – cho phép trao đổi, tải biểu mẫu), chỉ có 1,9% doanh nghiệp có khả năng phân tích dự báo và 0,4% đạt đến cấp độ tự động8. Việc chậm chuyển đổi số khiến ngành logistics mất đi lợi thế cạnh tranh trong hệ thống thương mại logistics toàn cầu, không tận dụng được thành tựu của khoa học kỹ thuật, chưa đáp ứng kịp yêu cầu bứt phá của thời đại. Nguyên nhân của những hạn chế này chủ yếu do thiếu vốn, thiếu nhân lực có kỹ năng công nghệ trình độ kỹ thuật cao.

e. Các chiến lược và chính sách hiện có về xây dựng, phát triển logistics

Về mặt chiến lược và kế hoạch hành động, có thể kể đến Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025; Nghị quyết số 163/NQ-CP ngày 16/12/2022 của Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam; Quyết định số 493/QĐ-TTg ngày 19/04/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất, nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh vai trò của logistics trong việc hỗ trợ luân chuyển hàng hóa. Các văn bản định hướng mục tiêu dài hạn trong phát triển lĩnh vực logistics tập trung đặt ra các mục tiêu làm giảm chi phí logistics và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Về quy hoạch hạ tầng giao thông và trung tâm logistics tạo “xương sống” cho ngành logistics vận hành và phát triển, Nhà nước trong những năm gần đây đã đưa ra một loạt các quy hoạch cụ thể tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 1454/QĐ-TTg ngày 01/9/2021 phê duyệt quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kì 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kì 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 1769/QĐ-TTg ngày 19/10/2021 phê duyệt quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 1829/QĐ-TTg ngày 31/10/2021 phê duyệt quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thời kì 2021-  2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 648/QĐ-TTg ngày 07/6/2023 phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kì 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Việc quy hoạch lại tổng thể hạ tầng giao thông mang lại cơ hội lớn trong việc đồng bộ hạ tầng, tạo điều kiện xây dựng một hệ thống liên thông, giảm chi phí logistics.

Những cải cách về thủ tục hành chính, chính sách thuế, hải quan giúp rút ngắn thời gian thông quan, kê khai thủ tục hành chính, giảm chi phí không chính thức. Hiện nay hạ tầng công nghệ thông tin, cơ chế một cửa quốc gia cho phép doanh nghiệp khai báo thủ tục hành chính liên quan đến xuất, nhập khẩu tại một cổng duy nhất. Các chính sách giảm thuế giá trị gia tăng xuống 8% đối với phần lớn các dịch vụ logistics cốt lõi, như: vận tải hàng hóa, dịch vụ kho bãi, bốc xếp…9 cũng góp phần giúp giảm chi phí đầu vào cho chủ hàng.

3. Một số kiến nghị

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế chính sách hỗ trợ chuyển đổi số và logistics thông minh.

Chính phủ cần hoàn thiện khung khổ pháp lý về chuyển đổi số quốc gia, đi kèm là chuyển đổi số ngành logistics, đặc biệt chú trọng đến vấn đề an ninh, bảo mật thông tin chia sẻ dữ liệu, bản quyền trí tuệ và công nghệ số. Hoàn thiện các điều luật điều chỉnh các hoạt động logistics tạo cơ chế thông thoáng cho các đơn vị logistics phát triển. Thiết lập các gói tín dụng ưu đãi chính sách cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ tự động hóa, robot kho bãi, hệ thống quản lý tự động, ứng dụng trí tuệ nhân tạo… Rà soát, bãi bỏ các rào cản hành chính gây tốn kém chi phí và thời gian cho doanh nghiệp, hướng tới đẩy mạnh hiệu quả logistics quốc gia.

Để hạ tầng có tính tích hợp cao, cần ban hành các bộ tiêu chuẩn chung về công nghệ và dữ liệu cho các trung tâm logistics địa phương. Giúp liên thông hệ thống thông tin giữa các cảng biển, cảng cạn ICD và kho bãi, tạo tiền đề cho việc xây dựng nền tảng số logistics quốc gia, minh bạch hóa dòng chảy hàng hóa và cắt giảm các chi phí trung gian không đáng có.

Thứ hai, đầu tư trọng điểm theo mô hình liên hợp.

Xây dựng cụm cảng logistics đa phương thức: đầu tư mạnh mẽ vào việc kết nối các “điểm nút” là cảng biển, cảng hàng không với mạng lưới đường sắt, đường bộ và đường thủy nội địa. Mục tiêu là hình thành các chuỗi vận tải liên hợp, giúp hàng hóa luân chuyển liền mạch, giảm thiểu thời gian chờ đợi tại các điểm trung chuyển. Tại mỗi cụm cảng logistics cần cân nhắc đầu tư toàn diện, trang bị đồng bộ hướng tới mục tiêu hiện đại, hiệu quả.

Phát triển theo trục liên vùng: các dự án hạ tầng cần được quy hoạch dựa trên lợi thế kinh tế vùng (ví dụ: vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gắn với cụm cảng Cái Mép – Thị Vải). Việc đầu tư phải bảo đảm tính tương thích về kỹ thuật và đồng bộ về thời gian hoàn thành giữa các địa phương trong vùng để phát huy tối đa hiệu quả luân chuyển. 

Thứ ba, đẩy mạnh mô hình đối tác công tư (PPP) và xã hội hóa nguồn vốn đầu tư.

Áp dụng phương thức hợp tác công tư trong xây dựng và khai thác hạ tầng logistics. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào “hạ tầng mềm”, bao gồm các hệ thống quản trị kho bãi tự động tích hợp AI và Internet vạn vật (IoT). Sự tham gia của các công ty nội địa và các tập đoàn lớn sẽ giúp đẩy nhanh tiến trình hình thành các trung tâm logistics thông minh với các khả năng dự báo luồng hàng, tối ưu sắp xếp hướng tới tối ưu hóa chi phí vận hành dựa trên dữ liệu lớn.

Thứ tư, phát triển logistics xanh

Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống tiêu chí định lượng về logistics xanh làm căn cứ để thống nhất phân loại, đánh giá và cấp chứng chỉ cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics, qua đó, bảo đảm sự tương thích với các điều ước quốc tế, cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam là thành viên. Việc này không chỉ giúp chuẩn hóa thị trường mà còn là cơ sở để áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu thiết bị công nghệ sạch và tiếp cận các nguồn tín dụng xanh từ các định chế tài chính quốc tế. Trong đó, cần xác định lộ trình bắt buộc đối với việc chuyển đổi từ phương tiện vận tải sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang các phương tiện sử dụng năng lượng điện, khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) hoặc năng lượng hydro. Đồng thời, cần ban hành các quy chuẩn về hạ tầng trạm sạc, hạ tầng cung ứng năng lượng xanh tại các trung tâm logistics và cảng biển, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi phương thức vận tải.

Khung chính sách cần bổ sung các ưu đãi về phí hạ tầng và phí cảng biển đối với các tàu hoặc phương tiện đạt tiêu chuẩn phát thải thấp. Khuyến khích đầu tư vào hệ thống “cảng xanh” và “kho hàng xanh” thông qua việc hỗ trợ chi phí lắp đặt hệ thống năng lượng áp mái và các giải pháp quản lý năng lượng thông minh, nhằm giảm tối đa lượng phát thải carbon trong toàn bộ quy trình lưu kho và phân phối.

4. Kết luận

Ngành logistics Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt chuyển mình quan trọng, từ một ngành dịch vụ hỗ trợ đơn thuần trở thành trụ cột thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Những năm gần đây, hệ thống hạ tầng logistics đang có sự cải thiện về mặt quy mô và tính kết nối, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia về cao tốc và cảng biển. Tuy nhiên, ngành logistics vẫn phải đối mặt với những thách thức nội tại mang tính cấu trúc như chi phí còn cao, sự rời rạc trong liên kết vùng, đồng bộ hạ tầng kỹ thuật và sự chậm trễ trong việc áp dụng các công nghệ hiện đại đặc biệt tại các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa.

Việc ban hành Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 – 2035, tầm nhìn đến năm 2050 đã tạo ra một khung khổ pháp lý vững chắc và dài hạn, mở ra triển vọng phát triển các mô hình mới mang tính đột phá như khu thương mại tự do và logistics xanh. Điều cần thiết hiện tại là làm sao để xây dựng, cải tạo, phát triển ngành logistics được như những mục tiêu đề ra, góp phần phát triển kinh tế số, khai thác tối đa tiềm lực địa lý, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm logistics của khu vực và thế giới.

Chú thích:

1. Vietnam transport infrastructure: State, challenges & future. https://www.vietnam-briefing.com/doing-business-guide/vietnam/why-vietnam/vietnam-transport-infrastructure

2. Nối dài tuyến động lực cao tốc Bắc – Nam phía Đông. https://baodautu.vn/noi-dai-tuyen-dong-luc-cao-toc-bac—nam-phia-dong-d213998.html

3, 4, 5, 6, 8, 9. Bộ công thương (2024). Báo cáo Logistics Việt Nam 2024 khu thương mại tự do. H. NXB công thương, tr. 45 – 46, 49, 100, 126, 44, 122

7. Gỡ “nút thắt” liên kết, thúc đẩy kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc. https://vneconomy.vn/go-nut-that-lien-ket-thuc-day-kinh-te-vung-trung-du-va-mien-nui-phia-bac.htm

Tài liệu tham khảo:

1. Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 2220/QĐ-TTg ngày 09/10/2025 phê duyệt chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 – 2035, tầm nhìn đến 2050.

2. Quản lý nhà nước về logistics tại Việt Nam, thực trạng và giải pháp. https://lyluanchinhtri.vn/quan-ly-nha-nuoc-ve-logistics-tai-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-8197.html

3. Chuyển đổi số: Chìa khóa giúp ngành logistics Việt Nam ‘bứt phá’. https://congthuong.vn/chuyen-doi-so-chia-khoa-giup-nganh-logistics-viet-nam-but-pha-405946.html

4. Pham Quang Hai, Phung Quang Phat, Do Hong Quan (2023). Digital transformation in Vietnamese logistics businesses. VNU Journal of Economic and Business, 3(1),28.