ThS. Dương Thị Hồng Vân
Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ
(Quanlynhanuoc.vn) – Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn là điểm trung chuyển hàng hóa quan trọng của tuyến thương mại Việt Nam – Trung Quốc. Đây là nơi hoạt động xuất, nhập khẩu diễn ra sôi động và chịu ảnh hưởng lớn từ biến động thị trường biên giới. Trong bối cảnh chuyển đổi số, yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ xuất, nhập khẩu hàng hóa, tối ưu hóa quy trình và tăng năng lực xử lý hàng hóa trở nên cấp thiết. Bài viết phân tích những thay đổi trong hệ thống dịch vụ xuất, nhập khẩu hàng hóa, nhận diện các hạn chế; đồng thời, đề xuất giải pháp nhằm hiện đại hóa dịch vụ xuất, nhập khẩu hàng hóa, tăng tính chủ động và giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Từ khóa: Dịch vụ xuất, nhập khẩu; chuyển đổi số; hàng hóa; Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn;.
1. Đặt vấn đề
Khu kinh tế Đồng Đăng – Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế (Hữu Nghị – đường bộ và Ga Đồng Đăng), 3 cửa khẩu phụ (Tân Thanh, Cốc Nam, Pò Nhùng) và các khu chức năng chính, như: khu trung chuyển hàng hóa, khu chế xuất 1, khu phi thuế quan. Trong giai đoạn 2016 – 2020 và giai đoạn 2021 – 2025, Khu Kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn tiếp tục được lựa chọn là một trong 8 khu kinh tế cửa khẩu trọng điểm để tập trung đầu tư phát triển.
Những năm gần đây, tỉnh Lạng Sơn xác định chuyển đổi số trong hoạt động cửa khẩu là một trong những nhiệm vụ phát triển kinh tế quan trọng. Trong đó, việc số hóa không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp rút ngắn thời gian, mà còn giúp cơ quan chức năng đẩy mạnh cải cách hành chính và minh bạch hóa thông tin; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa. Do vậy, đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với chuyển đổi số được Ban Quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn triển khai đồng bộ nhằm tiện lợi hóa thông quan, nâng cao năng lực xuất nhập khẩu, qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cửa khẩu theo hướng hiện đại và bền vững.
2. Một số vấn đề đặt ra khi thực hiện chuyển đổi số trong xuất, nhập khẩu hàng hóa tại khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn
Trong những năm qua, tỉnh Lạng Sơn tập trung phát triển kinh tế cửa khẩu và dịch vụ xuất, nhập khẩu hàng hóa, trong đó xác định ưu tiên chiến lược thúc đẩy số hóa trong quản lý, tự động hóa quy trình thông quan và tăng cường liên thông dữ liệu phục vụ thương mại quốc tế. Đặc biệt, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TU ngày 28/9/2021 về chương trình chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và xác định nền tảng cửa khẩu số là một trong 5 trụ cột chính, gồm: chuyển đổi số trong cơ quan Đảng, phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số và cửa khẩu số.
Qua hơn 3 năm triển khai, nền tảng cửa khẩu số đã mang lại rất nhiều tiện ích, góp phần hiện thực mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, cải cách hành chính, nâng cao năng lực, tính minh bạch trong hoạt động xuất, nhập khẩu. Thống kê cho thấy, tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị đã có 2.092 tài khoản đăng ký sử dụng; 100% các doanh nghiệp khai báo trực tuyến với gần 300.000 phương tiện và hơn 1.400 doanh nghiệp đăng ký tài khoản trên nền tảng cửa khẩu số1.
Thực hiện chuyển đổi số tại Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn không chỉ dừng lại ở việc số hóa hồ sơ mà đã đi sâu vào thay đổi phương thức vận hành thực tế. Cụ thể, hệ thống đã tích hợp các công nghệ hiện đại, như: định vị vệ tinh, camera trí tuệ nhân tạo (AI) nhận diện biển số và barie tự động để kiểm soát luồng xe. Việc ứng dụng nền tảng số đã giúp giảm thời gian thông quan trung bình từ 3 – 5 phút xuống còn dưới 30 giây đối với các xe đã khai báo trước; đồng thời, cắt giảm được ít nhất 2 bước quy trình thủ công cho doanh nghiệp2.
Đến nay, nền tảng cửa khẩu số đã vận hành ổn định, thông suốt, phát huy hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế biên mậu nói chung và hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng. Tất cả cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng, đại lý hải quan, doanh nghiệp thực hiện xuất, nhập khẩu qua biên giới đều áp dụng đem lại hiệu quả cao. Có thể thấy, nền tảng cửa khẩu số đã giúp doanh nghiệp, các lực lượng chức năng trên địa bàn thực hiện các hoạt động trên một nền tảng số duy nhất để giảm thời gian thông quan, tăng cường công tác quản lý, giám sát của cơ quan nhà nước.
Trong công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính và triển khai cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”. Lũy kế đến ngày 01/10/2025, Ban Quản lý Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn đã hoàn thành việc số hóa 145/145 hồ sơ thủ tục hành chính còn hiệu lực giai đoạn 2018 – 2025 trên hệ thống hosotthc.langson.gov.vn, đạt 100%. Bộ phận một cửa cũng thực hiện tiếp nhận mới 54 hồ sơ trực tuyến, đạt 100%3.
Từ nền tảng cải cách hành chính và chuyển đổi số đó, hiệu quả hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn tiếp tục được nâng cao. Từ đầu năm đến nay, hoạt động thông quan duy trì ở mức cao và ổn định, trung bình khoảng 1.600 lượt xe/ngày, cao điểm đạt trên 2.000 lượt xe/ngày, góp phần giảm ùn ứ, tiết kiệm chi phí logistics cho doanh nghiệp. Đáng chú ý, kết quả thu phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu trên địa bàn tỉnh tính đến ngày 10/8/2025 đạt 566.381,6 triệu đồng, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm 20244.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết đạt được, còn tồn tại một số vấn đề cần đặt ra, như:
Thứ nhất, về chính sách. Mức độ rõ ràng, tính đồng bộ và khả năng áp dụng vào thực tiễn còn hạn chế. Một số chính sách của trung ương về chuyển đổi số, cửa khẩu số, hải quan điện tử… được ban hành nhưng khi triển khai xuống cấp cơ sở lại thiếu quy trình chi tiết. Theo khảo sát 115 doanh nghiệp hoạt động xuất, nhập khẩu và cung ứng dịch vụ tại Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn từ tháng 5 – 9/2025 cho thấy, nhóm tiêu chí “cơ chế – chính sách” được đánh giá thấp hơn so với các nhóm tiêu chí khác, như: chất lượng dịch vụ và hạ tầng kỹ thuật. Nhiều doanh nghiệp phản ánh các văn bản chủ yếu mang tính định hướng, trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể phù hợp với đặc thù khu kinh tế cửa khẩu biên giới, dẫn đến việc phải điều chỉnh hồ sơ, hỏi lại nhiều lần hoặc phụ thuộc vào sựgiải thích của từng cơ quan chức năng trong quá trình thực hiện thủ tục điện tử. Thực tế này cho thấy,còn tồn tại khoảng cách nhất định giữa mục tiêu chính sách ở trung ương và năng lực tổ chức thực hiện tại cấp cơ sở, ảnh hưởng đến hiệu quả thực chất của chuyển đổi số trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa.
Thứ hai, kết quả khảo sát 115 doanh nghiệp tại Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn cho thấy, phần lớn doanh nghiệp dịch vụ xuất, nhập khẩu và logistics có quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính và nhân lực còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp phản ánh chi phí đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, phần mềm quản lý và đào tạo nhân lực số là rào cản đáng kể đối với việc tham gia chuyển đổi số. Bên cạnh đó, năng lực tổ chức vận tải trung chuyển hàng hóa quốc tế và nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường số và môi trường thương mại quốc tế còn hạn chế. Nếu không có cơ chế hỗ trợ phù hợp, một bộ phận doanh nghiệp có nguy cơ gặp khó khăn trong việc tham gia các chuỗi dịch vụ xuất, nhập khẩu hình thành trên nền tảng số, ảnh hưởng đến tính bao trùm của tăng trưởng kinh tế cửa khẩu.
Thứ ba, rủi ro xã hội, môi trường và an ninh kinh tế biên giới. Với tỷ trọng hơn 40% GRDP và trên 80% thu ngân sách tỉnh Lạng Sơn đến từ Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn, bất kỳ thay đổi nào từ phía đối tác, như: siết kiểm soát biên giới, thay đổi chính sách, xung đột thương mại…đều có thể tạo ra tác động dây chuyền lên kinh tế và sự ổn định khu vực biên giới5.
Thứ tư, thiếu nguồn lực tài chính. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế, khó khăn của Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn. Hạn chế về vốn làm giảm khả năng cạnh tranh, tạo ra rào cản lớn đối với sự phát triển toàn diện của dịch vụ xuất, nhập khẩu hàng hóa.
Thứ năm, kết cấu hạ tầng nói chung và hạ tầng logictics, hạ tầng công nghệ và viễn thông tại khu vực biên giới còn thiếu đồng bộ và chưa phát triển toàn diện. Một số khu vực cửa khẩu phụ hoặc điểm tập kết vùng sâu, vùng xa vẫn còn thiếu ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý, điều hành hoạt động xuất, nhập khẩu; thiếu camera giám sát, phần mềm điều phối phương tiện, trạm cân điện tử kết nối trung tâm. Kết cấu hạ tầng cho dịch vụ logistics, như: kho bãi, trung chuyển còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả của toàn bộ chuỗi cung ứng. Điều này ảnh hưởng đến khả năng vận hành chuỗi logistics thông minh và giám sát liên tục trên toàn hệ thống.
3. Một số giải pháp
Một là, hoàn thiện khung thể chế, chính sách. Cần rà soát toàn diện các văn bản liên quan đến quản lý dịch vụ logistics, dịch vụ kho bãi, vận tải, đại lý hải quan, dịch vụ ủy thác xuất nhập khẩu, phí và lệ phí cửa khẩu, từ đó, nhận diện các quy định chồng chéo, lạc hậu, thiếu phù hợp với môi trường số. Các thủ tục liên quan đến cấp phép, gia hạn, xác nhận, chứng nhận… cần được thiết kế để có thể thực hiện 100% trên môi trường mạng, trừ những khâu pháp luật bắt buộc xử lý trực tiếp.
Ban hành các quy định về chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước và giữa khu vực công – tư trong phạm vi Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn. Hoàn thiện chính sách phí và lệ phí theo hướng khuyến khích giao dịch điện tử, tối ưu thời gian xử lý, gắn thu phí với chất lượng dịch vụ và khả năng chia sẻ dữ liệu; đồng thời, áp dụng quản lý rủi ro trong kiểm tra chuyên ngành, giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế đối với lô hàng có lịch sử tuân thủ tốt trên nền tảng dữ liệu số. Ngoài ra, bổ sung các quy định về bảo vệ dữ liệu, an ninh mạng, an ninh kinh tế trong hoạt động dịch vụ xuất, nhập khẩu số, quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp dịch vụ logistics, doanh nghiệp vận hành nền tảng số.
Mặt khác, cần xây dựng các quy chế ưu đãi cho các nhà đầu tư vào Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn. Cụ thể hóa các hình thức ưu đãi thuế, tiền thuê đất, phí sử dụng hạ tầng, phí sử dụng bến bãi trong giới hạn pháp luật cho phép, với mức độ ưu tiên cao hơn cho các dự án đầu tư vào hạ tầng logistics hiện đại, dịch vụ xuất, nhập khẩu chất lượng cao, hạ tầng số, trung tâm điều hành cửa khẩu số, trung tâm dữ liệu và các dự án logistics xanh, ít phát thải; xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro và lợi ích với các dự án hạ tầng quy mô lớn theo hình thức hợp tác công – tư hoặc xã hội hóa.
Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
(1) Hỗ trợ doanh nghiệp triển khai chương trình đánh giá năng lực nhân sự, tập trung vào các kỹ năng: sử dụng chứng từ điện tử, vận hành hệ thống TMS/WMS, chuyển đổi số trong quản trị doanh nghiệp, hiểu biết về quy trình hải quan điện tử, kiến thức về tiêu chuẩn logistics quốc tế (ISO, IATA, FIATA…).
(2) Tổ chức các chương trình đào tạo, tập huấn chuyên sâu theo từng nhóm đối tượng: đối với nhân lực nghiệp vụ xuất, nhập khẩu hàng hoá, cần nắm vững quy trình hải quan điện tử, quy trình chứng từ số, quy định về SPS, TBT, quản trị rủi ro trong xuất, nhập khẩu. Đối với nhân lực logistics, cần vận hành kho thông minh, định tuyến phương tiện, truy xuất nguồn gốc, ứng dụng IoT trong giám sát hàng hóa. Đối với nhân lực quản trị doanh nghiệp, cần sử dụng ERP, CRM, kế toán số, thương mại điện tử xuyên biên giới. Đối với nhân lực công nghệ, cần vận hành hệ thống kết nối với cửa khẩu số, bảo mật dữ liệu, xử lý sự cố kỹ thuật.
(3) Thúc đẩy doanh nghiệp hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu, hiệp hội logistics và các tập đoàn công nghệ để phát triển nguồn nhân lực mới thông qua chương trình đào tạo tại chỗ; mô hình “học theo dự án”; trung tâm đào tạo logistics, xuất nhập khẩu tại khu kinh tế cửa khẩu;
(4) Xây dựng đội ngũ chuyên gia nòng cốt trong các doanh nghiệp – những người có khả năng đào tạo nội bộ, triển khai chuyển đổi số và dẫn dắt tổ chức trong quá trình áp dụng công nghệ mới.
Ba là, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
Nhà nước cần đầu tư, nâng cấp, mở rộng năng lực của các tuyến đường bộ kết nối trực tiếp cửa khẩu, như: tuyến Hữu Nghị – Tân Thanh – Cốc Nam; các đường tỉnh, đường vành đai cửa khẩu; đường gom cao tốc… nhằm bảo đảm lưu lượng phương tiện lớn, giảm ùn tắc và tạo sự thông suốt cho vận tải hàng hóa; đẩy mạnh đầu tư đưa tuyến đường sắt liên vận Đồng Đăng – Bằng Tường trở thành trục vận tải chính cho hàng hóa khối lượng lớn, hàng container, hàng yêu cầu giao nhanh; nghiên cứu phát triển thêm các khu depot, ga hàng hóa để khai thác tối đa hiệu quả vận tải đường sắt quốc tế; xây dựng các tuyến đường kết nối liên vùng (Hà Nội – Bắc Giang – Lạng Sơn – Quảng Tây) và kết nối giữa cửa khẩu – khu công nghiệp – trung tâm logistics – cảng biển (Hải Phòng, Quảng Ninh) nhằm hình thành hành lang logistics xuyên suốt, đồng bộ và giảm chi phí chung cho toàn chuỗi cung ứng; tích hợp các giải pháp giao thông thông minh trên nền tảng số với hệ thống quản lý luồng phương tiện bằng dữ liệu thời gian thực, camera giám sát dọc tuyến, cảm biến theo dõi tải trọng, hệ thống chỉ dẫn giao thông số hóa, phần mềm đặt lịch xe vào cửa khẩu và bản đồ số kết nối cửa khẩu số.
Về hệ thống kho tàng, bến bãi, cần quy hoạch và đầu tư xây dựng các khu kho ngoại quan, trung tâm logistics cấp vùng, với hạ tầng hiện đại, diện tích lớn, đủ khả năng tiếp nhận hàng container, hàng qua vận tải đa phương thức; phát triển kho lạnh công nghệ cao phục vụ hàng nông sản, thực phẩm, hàng có điều kiện bảo quản đặc biệt, bảo đảm các yêu cầu truy xuất nguồn gốc, chứng nhận chất lượng và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm; ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý kho: hệ thống WMS; hệ thống RFID và IoT theo dõi tự động hàng hóa; phần mềm kiểm soát tồn kho thời gian thực; hệ thống cảnh báo sớm rủi ro thất lạc, hư hỏng; cải tạo, mở rộng các bãi đỗ phương tiện, bãi chờ xuất nhập khẩu, tích hợp với phần mềm đặt lịch xe, kiểm soát tải trọng, quản lý tự động phương tiện vào – ra nhằm giảm ùn tắc và tăng tốc độ quay vòng phương tiện; phát triển mô hình dịch vụ logistics đa dạng trong kho tàng, bến bãi: phân loại, đóng gói, dán nhãn điện tử, kiểm định chất lượng, xử lý đơn hàng, gia công nhẹ… để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hoá qua cửa khẩu.
Xây dựng trung tâm dữ liệu phục vụ lưu trữ, xử lý, phân tích dữ liệu lớn liên quan đến hàng hóa, phương tiện, doanh nghiệp, luồng thông quan; hoàn thiện và mở rộng nền tảng cửa khẩu số, tích hợp: hệ thống đặt lịch xe; hệ thống thu phí điện tử; hệ thống giám sát hàng hóa bằng AI; hệ thống cảnh báo ùn tắc; bản đồ số logistics; cơ chế chia sẻ dữ liệu với hải quan và với phía Trung Quốc; triển khai đồng bộ hệ thống hải quan số – hải quan thông minh, kết nối với doanh nghiệp, kho bãi, bến bãi, ngân hàng, vận tải, kiểm dịch; đầu tư hạ tầng truyền dẫn tốc độ cao, mạng 5G, cáp quang, camera giám sát, hệ thống IoT dọc các tuyến vận tải và tại cửa khẩu; thiết lập hệ thống phân tích dữ liệu lớn, ứng dụng AIđể dự báo lượng hàng, điều tiết phương tiện, phát hiện gian lận thương mại và tối ưu hóa quy trình thông quan; xây dựng mô hình khu thử nghiệm cho doanh nghiệp logistics, công nghệ để thử nghiệm các giải pháp số, mô hình dịch vụ mới trước khi triển khai chính thức.
Bốn là, tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn cho phát triển dịch vụ xuất,nhập khẩu trong bối cảnh chuyển đổi số. Ưu tiên bố trí ngân sách tỉnh và lồng ghép các chương trình đầu tư công cho các hạng mục phục vụ dịch vụ xuất, nhập khẩu; tăng cường huy động vốn từ doanh nghiệp, hợp tác công – tư cho các dự án dịch vụ xuất, nhập khẩu có khả năng thu hồi. Tận dụng các nguồn hỗ trợ của trung ương, đặc biệt là vốn cho kinh tế cửa khẩu, thương mại biên giới và chuyển đổi số; thu hút vốn từ ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp xuất nhập khẩu nâng cấp công nghệ, ứng dụng nền tảng số, triển khai thanh toán quốc tế và bảo hiểm thương mại; Sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả, tránh dàn trải, ưu tiên cho các dự án có tác động trực tiếp đến chất lượng dịch vụ xuất nhập, khẩu hàng hóa và khả năng chuyển đổi số.
Năm là, tăng cường cơ chế trao đổi thông tin và hội đàm định kỳ giữa tỉnh Lạng Sơn và Khu tự trị Quảng Tây để điều phối hoạt động xuất, nhập khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp và xử lý các vấn đề phát sinh tại cửa khẩu; thống nhất quy trình chuyên môn và tiêu chuẩn kỹ thuật trong các khâu kiểm dịch, kiểm tra chuyên ngành, chứng từ điện tử và truy xuất nguồn gốc nhằm rút ngắn thời gian thông quan; chia sẻ dữ liệu vận hành cửa khẩu, như: lưu lượng xe, năng lực thông quan, tình trạng bến bãi, mùa vụ hàng hóa để chủ động điều tiết, hạn chế ùn tắc và nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ; tăng cường phối hợp giữa các lực lượng chức năng hai bên gồm hải quan, biên phòng, kiểm dịch, quản lý thị trường… nhằm bảo đảm minh bạch, an toàn và thuận lợi trong hoạt động xuất, nhập khẩu.
Chú thích:
1. Lạng Sơn: Từ nền tảng cửa khẩu số đến Cửa khẩu thông minh – Bài 1: Thúc đẩy hiện đại hóa hoạt động xuất nhập khẩu. https://thuehaiquan.tapchikinhtetaichinh.vn/lang-son-tu-nen-tang-cua-khau-so-den-cua-khau-thong-minh-bai-1-thuc-day-hien-dai-hoa-hoat-dong-xuat-nhap-khau-84961.html
2. Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Lạng Sơn (2024). Báo cáo tình hình, kết quả triển khai nền tảng cửa khẩu số và các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số tại khu vực cửa khẩu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
3, 4. Ban Quản lý khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn: Hiện đại hóa quản lý kinh tế cửa khẩu. https://doanhnghiepvathuongmai.vn/bai-viet/bql-khu-kinh-te-cua-khau-dong-dang-lang-son-hien-dai-hoa-quan-ly-kinh-te-cua-khau.phtml\
5. Tình hình xây dựng và phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn năm 2023.https://banqlktck.langson.gov.vn/tin-tuc-su-kien/tin-hoat-dong/tinh-hinh-xay-dung-va-phat-trien-khu-kinh-te-cua-khau-dong-dang-lang-son-nam-2023.html
Tài liệu tham khảo:
1. Công viên Logistics Viettel ở Lạng Sơn: Chuyện nói và làm của Viettel. https://baochinhphu.vn/cong-vien-logistics-viettel-o-lang-son-chuyen-noi-va-lam-cua-viettel-102241218112928352.htm
2. Lạng Sơn xây dựng hệ thống logistics cửa khẩu hiện đại, https://nhandan.vn/lang-son-xay-dung-he-thong-logistics-cua-khau-hien-dai-post825706.html
3. Giải pháp thúc đẩy giao thương hàng hoá qua cửa khẩu quốc tế ga Đồng Đăng (Lạng Sơn – Việt Nam) sang Trung Quốc bằng đường sắt. https://kv07.customs.gov.vn/index.jsp?pageId=4166&aid=194981&cid=70
4. Tạo đột phá từ cửa khẩu số ở Lạng Sơn. https://nhandan.vn/tao-dot-pha-tu-cua-khau-so-o-lang-son-post814941.html



