Thu hút nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng đào tạo  trung cấp lý luận chính trị ở đồng bằng sông Hồng

NCS. Phạm Thu Hương
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(Quanlynhanuoc.vn) –  Đào tạo đội ngũ cán bộ trung cấp lý luận chính trị giữ vai trò then chốt và cấp thiết trong bối cảnh đất nước vận hành theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp, quá trình chuyển đổi số và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, năng lực đào tạo tại các trường chính trị cấp tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặt ra, nguyên nhân chính là hạn chế về nguồn lực phục vụ quá trình đào tạo. Bài viết tập trung phân tích những yêu cầu mới về chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị; những hạn chế và thách thức trong thu hút nguồn lực phục vụ công tác đào tạo; đề xuất các giải pháp huy động nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Từ khóa: Nâng cao chất lượng, đào tạo trung cấp lý luận chính trị, thu hút nguồn lực, giai đoạn phát triển mới, đồng bằng sông Hồng.

1. Đặt vấn đề

Thực tiễn đổi mới và phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay đang đặt hệ thống chính trị ở địa phương trước những yêu cầu ngày càng cao về năng lực quản trị, chất lượng điều hành và hiệu quả phục vụ Nhân dân. Việc vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp gắn với tinh gọn tổ chức bộ máy, chuyển đổi số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đã làm thay đổi căn bản nội dung, phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương. Trong bối cảnh đó, đào tạo trung cấp lý luận chính trị – khâu nền tảng trong chuẩn hóa đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cơ sở đang nảy sinh vấn đề và bộc lộ hạn chế, đặc biệt tại các tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng sông Hồng.

Khu vực đồng bằng sông Hồng là khu vực có mật độ dân cư cao, mức độ đô thị hóa và phát triển kinh tế thuộc nhóm dẫn đầu cả nước, tập trung nhiều trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn. Các vấn đề quản trị địa phương ở khu vực mang tính tổng hợp và phức tạp, đòi hỏi đội ngũ cán bộ không chỉ vững vàng về bản lĩnh chính trị và kiến thức lý luận, mà còn phải có năng lực tư duy hệ thống, phân tích chính sách, phối hợp liên ngành và đặc biệt là năng lực tích hợp.

Từ thực tiễn đó, cho thấy, việc huy động và sử dụng tổng hợp các nguồn lực phục vụ đào tạo trong phạm vi toàn khu vực đồng bằng sông Hồng là một hướng tiếp cận có tính khả thi và hiệu quả cao. Khu vực này có mật độ các trường chính trị cấp tỉnh, thành phố lớn; có đội ngũ giảng viên, chuyên gia lý luận và quản lý nhà nước tương đối dồi dào; có điều kiện hạ tầng, giao thông, công nghệ thuận lợi cho việc kết nối, chia sẻ và phối hợp. Nếu các địa phương tiếp tục tổ chức đào tạo trung cấp lý luận chính trị theo cách riêng lẻ, khép kín, thì sẽ khó phát huy được lợi thế quy mô và thế mạnh bổ trợ lẫn nhau của cả khu vực. Ngược lại, nếu nguồn lực đào tạo được huy động theo hướng liên kết vùng, chia sẻ và sử dụng chung, thì có thể khắc phục được những hạn chế mà mỗi tỉnh, thành phố đang gặp phải.

2. Thực trạng về chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị tại khu vực đồng bằng sông Hồng

Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp gắn với tinh gọn tổ chức bộ máy, đào tạo trung cấp lý luận chính trị đang được đặt vào vị trí then chốt trong xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở và cán bộ quản lý ở địa phương. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hệ thống các trường chính trị cấp tỉnh, đặc biệt tại khu vực đồng bằng sông Hồng đang đối mặt với nhiều hạn chế và những thách thức để đáp ứng về nguồn lực phục vụ đào tạo trung cấp lý luận chính trị.

Những hạn chế và thách thức này thể hiện rõ trên năm phương diện chủ yếu sau:

Một là, nguồn lực cơ sở vật chất phục vụ đào tạo còn thiếu và chưa đồng bộ.

Mặc dù một số trường đã được đầu tư xây dựng trụ sở khang trang, song nhìn chung hệ thống phòng học chuyên dùng, phòng học thông minh, phòng mô phỏng quản trị, thư viện điện tử và không gian học tập số còn hạn chế. Trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ giảng dạy theo phương pháp tích cực, đào tạo gắn với tình huống thực tiễn và ứng dụng công nghệ số chưa được đầu tư đầy đủ. Điều này khiến quá trình đổi mới đào tạo theo hướng phát triển năng lực, đặc biệt là năng lực số và năng lực tích hợp cho học viên gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đào tạo cán bộ đòi hỏi phải gắn lý luận với thực tiễn quản trị hiện đại, hạn chế về cơ sở vật chất trở thành rào cản lớn đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo.

Hai là, nguồn lực tài chính, ngân sách dành cho đào tạo còn hạn hẹp và phân bổ chưa thực sự tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ.

Kinh phí hoạt động của các trường chính trị cấp tỉnh chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước cấp theo định mức, trong khi nhu cầu đầu tư cho đổi mới chương trình, phương pháp đào tạo, ứng dụng công nghệ số và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ngày càng tăng. Việc thiếu các nguồn tài chính, thiếu cơ chế huy động nguồn lực xã hội và liên kết vùng khiến các trường khó chủ động trong đầu tư phát triển. Thực tế cho thấy, do hạn chế về kinh phí, nhiều hoạt động đổi mới đào tạo trung cấp lý luận chính trị mới dừng lại ở mức độ học tập theo mô hình lớp học truyền thống, kết hợp trực tuyến hoặc triển khai tham quan thực tiễn tại địa phương… Điều này làm giảm khả năng thích ứng của các trường trước yêu cầu đào tạo cán bộ trong điều kiện chính quyền địa phương hai cấp vận hành theo hướng hiện đại.

Ba là, nguồn lực nhân lực của các trường chính trị còn bộc lộ nhiều hạn chế.

Đội ngũ giảng viên cơ hữu ở nhiều trường chưa đáp ứng đủ về quy mô, trong khi cơ cấu chuyên môn còn mất cân đối, tập trung nhiều vào các môn lý luận kinh điển, thiếu giảng viên am hiểu sâu về quản lý nhà nước, chuyển đổi số, quản trị công, hội nhập quốc tế và thực tiễn địa phương. Cơ cấu độ tuổi giảng viên ở một số trường chưa hợp lý, thiếu sự kế cận giữa các thế hệ, trong khi tỷ lệ giảng viên có trình độ cao, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú còn hạn chế. Đội ngũ giảng viên kiêm chức và thỉnh giảng tuy góp phần bổ sung kiến thức thực tiễn, song chưa được huy động ổn định, thiếu cơ chế gắn kết lâu dài. Đặc biệt, việc thiếu các chuyên gia giảng dạy về thực tiễn quản trị hiện đại, quản trị số và hội nhập quốc tế đang là điểm nghẽn lớn trong đào tạo trung cấp lý luận chính trị hiện nay.

Bốn là, nguồn lực thông tin và dữ liệu phục vụ đào tạo còn yếu và phân tán.

Hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học ở nhiều trường chính trị cấp tỉnh chưa được số hóa đầy đủ, thiếu kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các trường trong khu vực và với các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội, cộng đồng, doanh nghiệp. Việc tiếp cận các nguồn dữ liệu quản trị hiện đại, dữ liệu số về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội; dữ liệu phục vụ phân tích chính sách còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy gắn với thực tiễn. Trong bối cảnh đào tạo cán bộ cần dựa trên dữ liệu và bằng chứng, hạn chế về tin lực khiến việc hình thành năng lực số cho học viên trung cấp lý luận chính trị gặp nhiều khó khăn.

Năm là, nguồn lực thể chế và chính sách chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ.

Hệ thống văn bản quy định về đào tạo trung cấp lý luận chính trị, từ chương trình, nội dung, phương thức đào tạo đến cơ chế phối hợp giữa các chủ thể liên quan còn những khoảng trống và bất cập. Một số quy định chưa theo kịp yêu cầu đào tạo theo hướng phát triển năng lực, chưa gắn chặt với vị trí việc làm trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách nội bộ trong các Trường Chính trị cấp tỉnh về thu hút, đãi ngộ giảng viên chất lượng cao, khuyến khích đổi mới sáng tạo và hợp tác đào tạo còn hạn chế. Điều này làm giảm động lực đổi mới và khả năng huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiện có.

Từ thực trạng trên có thể khẳng định rằng, những hạn chế về nguồn lực đang là rào cản và cũng là những thách thức lớn đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay. Việc nhận diện đầy đủ và đúng đắn các hạn chế và thách thức này này là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực, đáp ứng yêu cầu đào tạo trung cấp lý luận chính trị, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực tích hợp, năng lực số và năng lực hội nhập quốc tế trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

3. Một số giải pháp

Thứ nhất, đầu tư, xây dựng, hoàn thiện hệ thống hạ tầng công nghệ và dữ liệu số dùng chung.

Thực tiễn cho thấy, đào tạo trung cấp lý luận chính trị có mục tiêu, chương trình, chuẩn đầu ra và đối tượng học viên tương đối thống nhất trong toàn hệ thống, song điều kiện cơ sở vật chất, tin học và mức độ ứng dụng công nghệ giữa các trường chính trị còn chênh lệch đáng kể. Trong khi đó, yêu cầu đổi mới phương thức đào tạo theo hướng hiện đại, linh hoạt, kết hợp trực tiếp và trực tuyến, gắn với chuyển đổi số ngày càng trở nên cấp thiết. Vì vậy, đầu tư hệ thống hạ tầng và dữ liệu số dùng chung chính là giải pháp căn cơ để vừa tiết kiệm nguồn lực, vừa nâng cao hiệu quả và hiệu năng quản lý, đồng thời, bảo đảm chất lượng và tính đồng bộ trong đào tạo trung cấp lý luận chính trị giữa các trường trong cùng khu vực. Xét về nội dung đầu tư, đây không phải là việc trang bị rời rạc các thiết bị công nghệ, mà là xây dựng một hệ thống tổng thể bao gồm nền tảng công nghệ dùng chung phục vụ quản lý đào tạo và tổ chức dạy – học, kho dữ liệu số dùng chung với giáo trình, bài giảng điện tử, ngân hàng câu hỏi, đề thi, đáp án, tài liệu nghiên cứu và sản phẩm khoa học, cùng với hệ thống kết nối, bảo mật và phân quyền khai thác dữ liệu phù hợp với yêu cầu quản lý của Đảng và Nhà nước, qua đó tạo điều kiện để các trường “dùng chung nhưng không dùng lẫn”, thống nhất về chuẩn mực nhưng vẫn phát huy tính chủ động của từng cơ sở đào tạo.

Về chủ thể thực hiện, cần có sự thống nhất lựa chọn và giao cho một trường chính trị của một tỉnh trong khu vực làm đầu mối chủ trì xây dựng, quản lý và vận hành hệ thống hạ tầng công nghệ và dữ liệu số dùng chung. Trường đầu mối này sẽ giữ vai trò trung tâm kỹ thuật và điều phối, trong khi các trường còn lại tham gia với tư cách phối hợp, đồng kiến tạo, đóng góp học liệu, dữ liệu, nguồn nhân lực chuyên môn và cùng khai thác, giám sát, hoàn thiện hệ thống trên cơ sở phân công, phân quyền rõ ràng.

Ở cấp độ vĩ mô, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh giữ vai trò định hướng chiến lược, ban hành chuẩn, hướng dẫn chuyên môn và kiểm tra, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống trường chính trị. Về thời điểm triển khai, giai đoạn 2026 – 2031 là thời điểm phù hợp nhất, bởi đây là giai đoạn lập và thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn mới của các địa phương. Việc chủ động chuẩn bị đề án và đề xuất dự án ngay từ giai đoạn này sẽ giúp hạng mục đầu tư hạ tầng công nghệ và dữ liệu số dùng chung được tích hợp chính thức vào kế hoạch đầu tư công, tạo cơ sở pháp lý và tài chính vững chắc cho triển khai lâu dài, thay vì phụ thuộc vào các nguồn kinh phí ngắn hạn, manh mún.

Xét về không gian triển khai, khu vực đồng bằng sông Hồng là địa bàn có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện giải pháp này, bởi đây là khu vực tập trung số lượng lớn trường chính trị, có nhu cầu đào tạo trung cấp lý luận chính trị cao, trình độ phát triển kinh tế – xã hội và hạ tầng công nghệ tương đối tốt. Quá trình triển khai cần được thực hiện theo hướng thí điểm, đánh giá, điều chỉnh và hoàn thiện, bảo đảm tính khả thi, an toàn và bền vững. Thành công của mô hình này tại khu vực sẽ tạo tiền đề quan trọng để nhân rộng ra các cụm trường chính trị khác trên phạm vi cả nước.

Thứ hai, cộng tác và chia sẻ đội ngũ giảng viên.

Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị trong bối cảnh đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục lý luận, việc cộng tác và chia sẻ nguồn lực đội ngũ giảng viên giữa các trường chính trị trong khu vực là cần thiết, khách quan và là giải pháp chiến lược mang tính hệ thống.

Cộng tác và chia sẻ đội ngũ giảng viên được hiểu là cơ chế phối hợp sử dụng linh hoạt nguồn lực giảng dạy hiện có giữa các trường, thông qua việc mời, cử giảng viên tham gia giảng dạy, báo cáo chuyên đề, hướng dẫn nghiên cứu thực tế hoặc trao đổi học thuật theo đúng chuyên môn, chuyên ngành, trình độ và kinh nghiệm, trên cơ sở không làm thay đổi quan hệ quản lý cán bộ mà nhằm tối ưu hóa nguồn lực trí tuệ, bảo đảm chất lượng và tính chuẩn hóa của đào tạo trung cấp lý luận chính trị trong toàn khu vực. Để giải pháp này được triển khai hiệu quả, vai trò chỉ đạo, thống nhất chủ trương của Tỉnh ủy các tỉnh trong khu vực có ý nghĩa quyết định, bởi đây là chủ thể có thẩm quyền định hướng, tạo cơ chế phối hợp liên tỉnh và bảo đảm sự đồng thuận chính trị trong việc chia sẻ nguồn lực giảng viên.

Trên cơ sở đó, các trường chính trị thực hiện ký kết các thỏa thuận hợp tác, xây dựng kế hoạch giảng dạy liên kết, hình thành danh mục và dữ liệu giảng viên để chia sẻ theo từng lĩnh vực chuyên môn và từng học phần cụ thể, đồng thời bảo đảm việc mời giảng, cử giảng viên được tiến hành công khai, minh bạch, đúng quy định. Thời điểm triển khai phù hợp là ngay từ đầu nhiệm kỳ 2026 – 2031, gắn với quá trình xây dựng chiến lược phát triển mới của các địa phương và các trường chính trị, nhằm hình thành cơ chế cộng tác, chia sẻ đội ngũ giảng viên một cách bài bản, ổn định và lâu dài, tránh tình trạng manh mún, tự phát.

Như vậy, cộng tác và chia sẻ đội ngũ giảng viên giữa các trường chính trị tại Khu vực đồng bằng sông Hồng không chỉ là giải pháp kỹ thuật trong tổ chức đào tạo, mà còn thể hiện tư duy quản trị giáo dục hiện đại, lấy chất lượng, hiệu quả và sự phát triển đồng bộ của toàn hệ thống làm mục tiêu, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị và xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ lý luận và năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Thứ ba, tái cơ cấu đầu tư, phân bổ tài chính, ngân sách.

Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước, việc tái cơ cấu đầu tư, phân bổ tài chính, ngân sách cho hoạt động đào tạo trung cấp lý luận theo tiếp cận dựa trên Khu vực Đồng bằng Sông Hồng trở thành một đòi hỏi khách quan và cấp thiết. Trước hết, đồng bằng sông Hồng là khu vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội trọng điểm, tập trung mật độ cao các tỉnh, thành phố lớn, các trung tâm đào tạo, nghiên cứu và các trường chính trị; đồng thời cũng là nơi yêu cầu về chất lượng cán bộ có trình độ lý luận và năng lực quản lý đặt ra ở mức cao hơn so với nhiều khu vực khác; trong khi đó, cơ chế đầu tư, phân bổ ngân sách cho đào tạo trung cấp lý luận hiện nay vẫn chủ yếu mang tính đơn lẻ theo từng tỉnh, từng trường, còn phân tán, dàn trải, thiếu liên kết vùng và chưa theo kịp yêu cầu vận hành của mô hình đào tạo hiện đại dựa trên công nghệ số và dữ liệu dùng chung.

Tái cơ cấu đầu tư và phân bổ tài chính, ngân sách ở đây được hiểu là quá trình cân đối, điều chỉnh lại cơ cấu chi ngân sách và nguồn lực tài chính theo hướng tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, chuyển từ tư duy “đầu tư đồng đều” sang tư duy “đầu tư chiến lược”. Trong đó, ưu tiên đầu tư cho hạ tầng công nghệ thông tin, nền tảng số và hệ thống dữ liệu dùng chung phục vụ đào tạo, quản lý học viên, quản lý chương trình và kết nối liên thông giữa các trường chính trị trong toàn khu vực. Cùng với đó, tái cơ cấu đầu tư tài chính, ngân sách còn bao hàm việc tăng cường bố trí ngân sách cho các hoạt động cốt lõi quyết định chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị, như nâng cao chất lượng giảng dạy, phát triển đội ngũ giảng viên, tổ chức nghiên cứu thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm địa phương, vùng và quốc gia, kể cả việc mở rộng các chương trình nghiên cứu, học tập thực tiễn ở nước ngoài theo hướng chọn lọc, phù hợp, nhằm giúp giảng viên, học viên và cán bộ quản lý giáo dục lý luận tiếp cận các mô hình quản trị, đào tạo tiên tiến, từ đó nâng cao chiều sâu lý luận gắn với thực tiễn sinh động.

Việc điều chỉnh đầu tư phải được đặt trong tổng thể vận hành của Chương trình chuyển đổi số quốc gia, coi đào tạo lý luận chính trị là một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái chuyển đổi số trong khu vực công, qua đó đòi hỏi ngân sách không chỉ bảo đảm chi thường xuyên mà còn phải dành tỷ trọng thích đáng cho đầu tư phát triển, đầu tư dài hạn, tạo nền tảng cho đổi mới phương thức đào tạo, quản lý và đánh giá. Đồng thời, trong điều kiện nguồn lực ngân sách nhà nước có hạn, mỗi tỉnh và mỗi trường chính trị trong khu vực cần chủ động xây dựng và thực hiện các chính sách tài chính, ngân sách đặc thù phù hợp với tính chất đơn vị sự nghiệp công lập, cho phép thí điểm xã hội hóa một phần tài chính đối với một số hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu thực tiễn, hợp tác quốc tế, trên nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước và giữ vững mục tiêu, tính chất của đào tạo trung cấp lý luận chính trị.

Để thực hiện thành công quá trình tái cơ cấu đầu tư, phân bổ tài chính, ngân sách này, vai trò chủ thể thuộc về Tỉnh ủy các tỉnh trong khu vực với trách nhiệm định hướng chính trị, thống nhất chủ trương và tạo sự đồng thuận trong toàn hệ thống; trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố là cơ quan trực tiếp chỉ đạo điều hành, phối hợp liên tỉnh để giao cho các Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các trường chính trị xây dựng phương án bố trí ngân sách, điều chỉnh cơ cấu chi phù hợp với yêu cầu đào tạo trung cấp lý luận chính trị theo tiếp cận vùng và theo hướng chuyển đổi số. Cần triển khai tái cơ cấu đầu tư, phân bổ tài chính, ngân sách cho công tác này khẩn trương, đồng bộ, gắn chặt với quá trình xây dựng và phê duyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn và phân bổ ngân sách trung hạn giai đoạn 2026 – 2031, coi đây là “cửa sổ chính sách” quan trọng để thể chế hóa các định hướng tái cơ cấu đầu tư, tránh tình trạng chậm trễ, manh mún hoặc thiếu nguồn lực bảo đảm thực hiện.

Thứ tư, đổi mới và hoàn thiện thể chế, chính sách.

Trước hết, các Tỉnh ủy, Thành ủy cần thống nhất nhận thức rằng đào tạo trung cấp lý luận chính trị không chỉ là nhiệm vụ riêng lẻ của từng địa phương, từng tỉnh, thành phố hay từng trường chính trị, mà là một cấu phần chiến lược của phát triển nguồn nhân lực chính trị – hành chính vùng, gắn trực tiếp với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, tư duy lý luận, năng lực quản trị hiện đại và khả năng liên kết, phối hợp liên tỉnh trong giải quyết các vấn đề phát triển chung của khu vực. Trên nền tảng nhận thức thống nhất đó, vai trò lãnh đạo của các Tỉnh ủy cần được thể hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ, đồng thuận chính trị cao để ban hành các chủ trương, định hướng và khung chính sách mang tính liên vùng về đào tạo trung cấp lý luận chính trị, qua đó tạo hành lang thể chế chung, khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, manh mún và thiếu liên thông giữa các địa phương.

Nội dung thể chế, chính sách liên vùng cần tập trung vào việc thiết lập cơ chế phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác đào tạo; xác định rõ trách nhiệm của từng Tỉnh ủy trong việc chỉ đạo các cơ quan chức năng và các trường chính trị tham gia mạng lưới đào tạo trong khu vực; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để huy động, chia sẻ và sử dụng chung các nguồn lực quan trọng, như đội ngũ giảng viên, hạ tầng công nghệ, dữ liệu số, học liệu và kết quả nghiên cứu thực tiễn. Bên cạnh đó, các Tỉnh ủy trong khu vực cần phối hợp, thống nhất trong việc định hướng chính sách tài chính, ngân sách theo tiếp cận khu vực, coi đây là công cụ then chốt để thu hút và bảo đảm nguồn lực cho đào tạo trung cấp lý luận chính trị, trong đó ưu tiên đầu tư có trọng tâm cho hạ tầng công nghệ và dữ liệu số dùng chung, đồng thời, tăng cường nguồn lực cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên.

Vai trò phối hợp giữa các Tỉnh ủy, Thành ủy còn thể hiện ở việc thiết lập cơ chế giám sát, đánh giá và điều chỉnh chính sách liên vùng, thông qua các hình thức giao ban, sơ kết, tổng kết định kỳ nhằm bảo đảm các chủ trương, thể chế đã ban hành được triển khai đồng bộ, hiệu quả và tạo ra tác động thực chất đối với chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị của toàn vùng. Như vậy, bằng sự phối hợp thống nhất, chủ động và trách nhiệm trong ban hành thể chế, chính sách liên vùng, các Tỉnh ủy trong khu vực Đồng bằng sông Hồng không chỉ tạo điều kiện thu hút và huy động hiệu quả các nguồn lực cho đào tạo trung cấp lý luận chính trị mà còn góp phần hình thành một không gian đào tạo lý luận hiện đại, liên thông, đồng bộ và bền vững, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

4. Kết luận

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, việc thu hút và huy động hiệu quả các nguồn lực cho đào tạo trung cấp lý luận chính trị tại khu vực đồng bằng sông Hồng là yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo của các trường chính trị mà còn là điều kiện nền tảng để xây dựng đội ngũ cán bộ địa phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy quản trị hiện đại và năng lực thích ứng với mô hình chính quyền địa phương hai cấp trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nếu không kịp thời đổi mới cách tiếp cận và tăng cường nguồn lực cho đào tạo trung cấp lý luận chính trị, sẽ khó đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành của hệ thống chính trị ở địa phương.

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Nội vụ (2024). Báo cáo tổng kết sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2024. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018). Quy định số 09-QĐi/TW ngày 13/11/2018 của Ban Bí thư (khóa XII) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.
5. Trường Chính trị tỉnh Ninh Bình (2025).Báo cáo số 09-BC/TCT ngày 22/8/2025 về tự đánh giá trường chính trị chuẩn mức 1.
6. Trường Chính trị tỉnh Ninh Bình (2021). Đề án xây dựng và phát triển Trường Chính trị tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2021 -2025, định hướng đến năm 2030.
7. Trường Chính trị tỉnh Hà Nam (2021). Đề án xây dựng trường chính trị tỉnh Hà Nam đạt chuẩn giai đoạn 2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030.
8. Toàn văn Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. https://lyluanchinhtri.vn/toan-van-du-thao-cac-van-kien-dai-hoi-xiv-cua-dang-10263.html.