Nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương

(Quanlynhanuoc.vn) – Biến đổi khí hậu đã và đang tác động mạnh mẽ trên toàn thế giới, thách thức sự tồn tại của nhân loại. Do đó, việc ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu đòi hỏi nỗ lực của tất cả các quốc gia cũng như vai trò của mỗi cá nhân, tổ chức và cộng đồng. Việt Nam luôn khẳng định có trách nhiệm và chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu. Trong nỗ lực chung của cả quốc gia, đòi hỏi có sự chủ động, tích cực từ phía các cấp chính quyền địa phương trong thực hiện đầy đủ các giải pháp nhằm ứng phó với tình hình biến đổi khí hậu hiện nay.
Ảnh minh họa (baoninhbinh.org.vn)
Đặt vấn đề

Theo Báo cáo chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu 2019 tại COP24 (Hội nghị Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Ba Lan), Việt Nam là quốc gia được xếp hạng 6/10 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam luôn khẳng định là một thành viên có trách nhiệm, chủ động thực hiện các cam kết quốc tế bằng việc phê duyệt Thỏa thuận Paris năm 2016, ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris và là nước đang phát triển duy nhất thực hiện được việc này. Bên cạnh đó, năm 2020, Việt Nam cũng là một trong 20 quốc gia đầu tiên hoàn thành rà soát, cập nhật đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và đã điều chỉnh tăng đáng kể mức đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội tới năm 2030 của đất nước.

Việt Nam là một trong những nước đang phát triển đầu tiên trên thế giới đưa nghĩa vụ thực hiện giảm phát thải khí nhà kính đã cam kết vào hệ thống pháp luật để toàn dân thực hiện. Bằng chứng là việc giảm phát thải khí nhà kính đã trở thành yêu cầu bắt buộc thực hiện đối với mọi tổ chức, cá nhân sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam và đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2020. Đây là tiền đề để tăng cường công tác ứng phó với BĐKH, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương

Quan điểm của Đảng được thể hiện rõ trong Báo cáo Chính trị Đại hội XIII đã đề ra 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, trong đó định hướng thứ 6 về lĩnh vực bảo vệ môi trường, thích ứng với BĐKH có nhiều nội dung mới, do đó, những vấn đề này được chính quyền địa phương (CQĐP) các cấp đặc biệt quan tâm, trong đó chú trọng nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát BĐKH, dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai; nâng cao năng lực chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ, năng lực chống chịu và thích ứng với BĐKH. Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát BĐKH, dự báo, cảnh báo thiên tai. Huy động, ưu tiên các nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để thích ứng với BĐKH, phòng, tránh, hạn chế, giảm thiểu tác động do BĐKH gây ra.

Mới đây, thành phố Đà Nẵng lên kế hoạch hành động ứng phó BĐKH. Theo đó, UBND thành phố Đà Nẵng vừa ban hành quyết định phê duyệt kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo kế hoạch này, Đà Nẵng sẽ quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tổng hợp và đa mục tiêu tài nguyên nước; áp dụng các công nghệ và phương thức sản xuất tiết kiệm nước; bảo đảm nhu cầu sử dụng nước; chủ động phòng, chống, giảm thiểu tác hại của cạn kiệt nguồn nước, xâm nhập mặn… do tác động của BĐKH. Thành phố sẽ củng cố, nâng cấp, xây mới các đoạn đê biển, đê sông xung yếu và phát triển rừng chắn sóng, chắn cát, rừng phòng hộ ven biển để phát huy vai trò “lá chắn tự nhiên”, bảo đảm chống chịu được với thiên tai theo kịch bản BĐKH, nước biển dâng và xâm nhập mặn… Về lâu dài, thành phố sẽ rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hạ tầng kỹ thuật, kinh tế – xã hội, khu đô thị, khu dân cư, phù hợp với các kịch bản BĐKH của quốc gia, khu vực và thành phố. Hình thành hệ thống kiểm soát, hạn chế lũ lụt, ngập úng trong đô thị…

Tỉnh Hậu Giang cũng triển khai dự án thích ứng với BĐKH liên quan đến nguồn nước. Dự kiến, từ năm 2022 – 2023, tỉnh sẽ triển khai Dự án nâng cao khả năng thích ứng với các tác động BĐKH liên quan đến nguồn nước. Dự án nhằm nâng cao năng lực của chính quyền cấp tỉnh trong việc quan sát, dự báo, phòng, chống thiên tai và các tác động tiêu cực của BĐKH, đặc biệt là lũ lụt, xâm nhập mặn, sạt lở đất và sụt lún đất thông qua các công nghệ và công cụ hiện đại của Phần Lan. Đồng thời, thông qua dự án, tỉnh Hậu Giang có cơ hội hiện đại hóa công nghệ thu thập, phân tích và chia sẻ dữ liệu môi trường dựa trên cách tiếp cận đô thị thông minh, người dân sẽ được cung cấp thông tin về các rủi ro trong hiện tại và tương lai đầy đủ hơn. Để chuẩn bị triển khai dự án, UBND tỉnh Hậu Giang giao Sở Tài nguyên và Môi trường báo cáo tóm tắt mục tiêu của 2 dự án môi trường, đánh giá dự báo quan trắc của địa phương, trên cơ sở thực hiện dự án này sẽ giúp tỉnh quản lý tốt vấn đề quan trắc nguồn nước mặt, thủy văn; giao Chi cục Thủy lợi báo cáo tình hình việc lắp đặt quan trắc, bản đồ sạt lở, phòng, chống thiên tai…

Ở khu vực phía Bắc, tỉnh Hải Dương cũng đã tiến hành đánh giá tác động của BĐKH bằng bản đồ Atlas và đã triển khai nghiên cứu ứng dụng “Xây dựng Atlas đánh giá tác động BĐKH năm 2025, định hướng đến năm 2030” nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu về sự BĐKH phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển các ngành kinh tế – xã hội của tỉnh. Theo đó, sản phẩm chính của Đề tài là thông qua bản đồ của 15 Atlas điện tử để đánh giá tác động của BĐKH như: đánh giá yếu tố dễ bị tổn thương; các biểu hiện của BĐKH thông qua chuỗi tài liệu quan trắc nhiệt độ, lượng mưa hơn 50 năm (1961 – 2018) và các tài liệu thống kê một số hiện tượng khí hậu cực đoan khác… Đặc biệt, mức độ tác động của BĐKH đến một số ngành, lĩnh vực của tỉnh. 15 bản đồ Atlas đánh giá tác động của BĐKH của tỉnh Hải Dương được các chuyên gia, nhà khoa học phân tích trên cơ sở tham chiếu theo kịch bản RCP 4.5 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trong các Atlas này, những tác động hầu hết có liên quan đến vấn đề bị ảnh hưởng bởi ngập lụt.

Nhìn chung, chính quyền các địa phương rất nỗ lực tìm các biện pháp, giải pháp cụ thể để ứng phó từ xa nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của BĐKH. Tuy nhiên, tác động của BĐKH đến các địa phương là không giống nhau, tùy thuộc vào vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của mỗi địa phương. Trong bối cảnh BĐKH hiện nay, thiên tai luôn có khuynh hướng dị thường và khó lường khiến cho việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ vào công tác dự báo trở nên khó khăn hơn, đặc biệt là những hiện tượng thiên tai ở phạm vi quy mô, không gian nhỏ, thời gian ngắn như mưa lớn, sạt lở đất và lũ quét. Chính vì vậy, việc triển khai kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH tại các địa phương trên cả nước hiện nay vẫn còn nhiều bất cập.

Bên cạnh đó, cũng còn có CQĐP vẫn chưa thực sự nhận thức đầy đủ về tác động nghiêm trọng của BĐKH nên có những biểu hiện chủ quan và thiếu tính chủ động trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo ứng phó kịp thời, có hiệu quả với những diễn biến xấu gây ra do BĐKH trên địa bàn. Còn có những kẽ hở trong công tác quản lý đã gây ra việc suy giảm hệ sinh thái tự nhiên một cách trầm trọng.

Về quy hoạch phát triển đô thị, kinh tế – xã hội chưa thực sự gắn liền với mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển các-bon thấp và hướng đến phát triển bền vững. Thực tế tại nhiều địa phương, việc quy hoạch phát triển đô thị đã làm mất cân bằng tự nhiên, phá vỡ cảnh quan thiên nhiên; đồng thời, mô hình phát triển công nghiệp và nông nghiệp gắn liền với việc bảo vệ môi trường cũng chưa được chú trọng. Hiện nay, đô thị đang gặp nhiều thách thức, như: BĐKH gây nên tình trạng ngập lụt ở các đô thị, ùn tắc giao thông và những yêu cầu về quản lý rác thải, nước thải… Do đó có thể thấy, nguyên nhân của BĐKH chủ yếu do hoạt động phát triển của con người gây nên là chủ yếu. Phát triển kinh tế và đô thị hóa thường song hành với nhau, cùng với đó là việc phát thải khí nhà kính (nguyên nhân của BĐKH) do hầu hết các hoạt động kinh tế tập trung tại khu vực đô thị.

Công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao tại các địa phương vẫn chưa đáp ứng yêu cầu ứng phó với BĐKH. Trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật để nâng cao tính hiệu quả, chính xác trong công tác dự báo, cảnh báo thiên thai và ứng phó với BĐKH luôn là thách thức mang tính cấp thiết đối với việc phát triển và ứng dụng khoa học của nguồn nhân lực giúp tham mưu, tư vấn, triển khai tổ chức các nhiệm vụ ứng phó với BĐKH tại các địa phương.

CQĐP nhiều tỉnh hiện nay chưa chủ động tăng cường hợp tác quốc tế trong ứng phó với BĐKH, vẫn còn trông chờ vào các dự án quốc tế mà trung ương mời gọi vào địa phương, chưa phát huy tối đa khả năng huy động nguồn tài chính dồi dào từ khu vực kinh tế tư nhân và nguồn tài chính nước ngoài vào phát triển công nghệ tại tỉnh và thiếu tính linh hoạt trong việc tiếp cận các cơ chế mới đang hình thành để tiếp nhận hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển.

Một số giải pháp nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của chính quyền địa phương

Một là, hoàn thiện thể chế, chính sách ứng phó với BĐKH. Tổ chức, triển khai đưa nội dung về ứng phó với BĐKH trong Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi năm 2020) vào cuộc sống. Cần xác định cụ thể thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước trong tổ chức ứng phó với vấn đề BĐKH. Hoàn thiện cơ chế, chính sách có liên quan đến ứng phó với BĐKH, lồng ghép vấn đề BĐKH vào trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng phát triển bền vững của địa phương nói riêng và cả nước nói chung.

Hai là, nâng cao năng lực ứng phó với BĐKH cần được lồng ghép vào các chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch chương trình, dự án phát triển của CQĐP, của ngành, đơn vị trên nguyên tắc chủ động thực hiện từ cơ sở trong quá trình chuẩn bị các kế hoạch phát triển của ngành và các lĩnh vực, qua các khâu: lập – thẩm định và phê duyệt – tổ chức thực hiện, trong đó, cơ sở phải được quyền chủ động trong quá trình lồng ghép, đồng thời, tuân thủ hướng dẫn chung của kế hoạch. Bên cạnh đó, các giải pháp thực hiện cần được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên để bảo đảm tính hiệu quả trong quá trình thực hiện các giải pháp đó. Các giải pháp được xây dựng trên cơ sở: mức độ ảnh hưởng của BĐKH thông qua việc xem xét diễn biến các yếu tố trong kịch bản BĐKH đã được công bố và phải tính toán chi phí – lợi ích của các giải pháp đối với ngành, lĩnh vực.

Nâng cao năng lực xây dựng kịch bản ứng phó với BĐKH. Việc xây dựng kịch bản ứng phó với BĐKH ở các địa phương cần được chú ý hoàn thiện trong những giai đoạn trước mắt. Về nguồn lực, cần chú ý đến đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) làm công tác xây dựng kịch bản ứng phó với BĐKH và cần dành một lượng ngân sách cho việc xây dựng kịch bản ứng phó với BĐKH. Sự minh bạch, công khai kịch bản ứng phó với BĐKH vừa giúp cho địa phương có điều kiện huy động nguồn lực, đồng thời, là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng kịch bản phù hợp với thực tiễn, tổng hợp và huy động được các sáng kiến trong ứng phó với BĐKH.

Ba là, các địa phương cần triển khai xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cho tăng trưởng xanh và ứng phó với BĐKH; thúc đẩy hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm của các nước trong thích nghi, ứng phó với BĐKH; nghiên cứu đề xuất tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước và hướng nguồn vốn tài trợ cho BĐKH thông qua ngân sách để chuyển sang tài trợ trực tiếp cho các dự án trong danh mục ưu tiên ứng phó với BĐKH; bổ sung cơ chế, chính sách đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương xã hội hóa đầu tư vào công việc ứng phó với BĐKH, thúc đẩy tăng trưởng xanh.

Bốn là, kiện toàn tổ chức bộ máy ứng phó với BĐKH của CQĐP. Trong đó, CQĐP cần lưu ý tới việc thiết lập tổ chức bộ máy chuyên môn về BĐKH, đặc biệt là những nội dung sau: số lượng các đầu mối ở địa phương cũng như các cộng đồng xã hội (tổ chức, đoàn thể chính trị – xã hội, nghề nghiệp…); năng lực tổ chức, kết nối, điều phối hoạt động; cơ chế vận hành, hoạt động của mạng lưới.

Năm là, cần nâng cao nhận thức của CBCC về vấn đề ứng phó với BĐKH, bảo đảm CBCC nhận thức thực sự đúng và đầy đủ về những biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của BĐKH đối với nhân loại. BĐKH là vấn đề nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của đất nước. Các lĩnh vực, ngành, địa phương dễ bị tổn thương và chịu sự tác động mạnh mẽ nhất của BĐKH là tài nguyên nước, nông nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông, nhà ở và cơ sở hạ tầng.

BĐKH có tác động mạnh đến các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội quốc gia, của ngành và địa phương đến an ninh lương thực, năng lượng, giáo dục – đào tạo và sức khỏe cộng đồng. Để có thể xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách, pháp luật về ứng phó với BĐKH, việc nâng cao nhận thức, lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH trong việc xây dựng văn hóa công sở cho CBCC đang thực sự là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Sáu là, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về ứng phó với BĐKH cho CBCC ở địa phương. Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cần nhanh chóng đưa nội dung ứng phó với BĐKH vào chương trình công tác; chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; truyền thông hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách khuyến khích CBCC tự học tập, nâng cao kiến thức quản lý và chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển nhân lực ngành tài nguyên và môi trường tại các địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu nhân lực đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, cơ cấu ngành nghề hợp lý… bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

Tăng cường tổ chức biên soạn các tài liệu phổ biến những chủ trương, quan điểm và sự cần thiết ứng phó với BĐKH, chia sẻ, tham quan những mô hình, cách làm hiệu quả trong ứng phó với BĐKH, bảo vệ môi trường điển hình tại các địa phương trong nước và các nước tiên tiến trên thế giới. Đồng thời, tuyên truyền, nêu gương những tập thể, cá nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp trong hoạt động ứng phó với BĐKH, nhằm tạo ra sự lan tỏa trong Nhân dân hưởng ứng và thực hiện theo chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Kết luận

Nhiệm vụ ứng phó với BĐKH hiện nay được Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối, chủ trì phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ và UBND cấp tỉnh nên việc trao đổi, hợp tác giữa các địa phương, bộ ngành có liên quan là cực kỳ quan trọng. Các cấp CQĐP cần thường xuyên rà soát, hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách tài chính nhằm nâng cao năng lực ứng phó với BĐKH, huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính bên trong và ngoài địa phương trong các kế hoạch và hành động ứng phó với tác động của BĐKH. Đẩy mạnh cải cách hành chính để nới lỏng hành lang cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các cơ quan khoa học vào tìm kiếm cơ hội phát triển. Chủ động thu hút và mời gọi các dự án quốc tế liên quan đến vấn đề ứng phó BĐKH…

Ngoài ra, một vấn đề cũng cần được chú ý trong quá trình xây dựng kịch bản ứng phó là các địa phương cũng cần chú ý tăng cường năng lực cho đội ngũ CBCC chuyên trách có chuyên môn, tuyên truyền, vận động người dân có nhận thức, ý thức thay đổi nếp sống xanh, có sự liên kết phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành phố, cùng vùng miền chịu tác động của BĐKH để xây dựng kịch bản ứng phó với BĐKH, tạo điều kiện cho việc xây dựng sức mạnh hiệp đồng trong ứng phó với BĐKH.

Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu 2019 tại COP24. Hội nghị Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu tại Ba Lan, ngày 17/12/2018.
2. Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện chiến lược và hành động quốc gia về biến đổi khí hậu, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh thực hiện chiến lược trong giai đoạn 2021 – 2030. http://dcc.gov.vn, ngày 15/6/2021.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
4. Kỷ yếu Hội nghị lần thứ ba về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. H. NXB Dân trí, 2021.
5. Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2020.
6. Tăng cường khả năng chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu cho các thành phố tại Việt Nam. Dcc.gov.vn, ngày 12/4/2021.
7. Thông báo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam gửi Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu. H. NXB Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam, 2021.
TS. Tạ Văn Việt – Đặng Thị Việt Hà
Học viện Hành chính Quốc gia