ThS. Trịnh Thị Tuyết Mai
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Trợ giúp pháp lý là quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội. Họ được Nhà nước trợ giúp khi có khó khăn, vướng mắc về pháp luật mà không tự xử lý được. Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận và quy định quyền trợ giúp pháp lý của những người yếu thế, trong đó có người khuyết tật trên cơ sở của pháp luật quốc tế về quyền trợ giúp pháp lý, đặc biệt là Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật. Bài viết nghiên cứu quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật theo quy định của pháp luật Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.
Từ khoá: Quyền trợ giúp pháp lý, người khuyết tật, pháp luật Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật được pháp luật quốc tế ghi nhận với tư cách là một quyền con người cụ thể, vừa là quyền để hỗ trợ thực hiện các quyền con người khác. Quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật được đề cập trong các văn kiện quốc tế về quyền con người, như: Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội, Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, Công ước quốc tế về chống mọi hình thức phân biệt đối xử, chống lại phụ nữ năm 1979, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989… Đặc biệt, Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật đã được Liên hợp quốc thông qua năm 2006 là văn bản có giá trị pháp lý cao thể hiện trách nhiệm của các quốc gia, cộng đồng quốc tế về việc quan tâm, bảo vệ quyền của người khuyết tật, trong đó có quyền trợ giúp pháp lý.
2. Quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật theo quy định của pháp luật Việt Nam
Hiện nay, theo số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê điều tra quốc gia về người khuyết tật, trên thế giới có khoảng 10% dân số là người khuyết tật. Số lượng người khuyết tật ở Việt Nam đang chiếm tỷ lệ lớn so với khu vực và thế giới. Theo Báo cáo điều tra quốc gia về người khuyết tật Việt Nam, tính đến năm 2016, Việt Nam có khoảng 6,2 triệu người khuyết tật từ 2 tuổi trở lên, chiếm 7,06% dân số trong đó tỷ lệ khuyết tật trẻ em từ 2-17 tuổi là 2,83% và người lớn là 8,67%. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về quyền của người khuyết tật ngày 28/11/2014.
Trên cơ sở ghi nhận của pháp luật quốc tế về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật, pháp luật Việt Nam đã có quy định về trợ giúp pháp lý nói chung, quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật nói riêng từ những năm cuối của thế kỷ XX. Trợ giúp pháp lý được hiểu là một chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước ta, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm người yếu thế trong xã hội, trong đó có người khuyết tật.
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” bắt đầu được sử dụng từ năm 1995 trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay” của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được chính thức sử dụng trong văn bản pháp luật với sự ra đời Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Theo quyết định này, hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý được thành lập từ trung ương đến địa phương, đồng thời quy định vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các tổ chức trợ giúp pháp lý.
Quyết định số 734/TTg là văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý và khẳng định quyền trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách, trong đó có người khuyết tật là những thương binh, bệnh binh.
Hiến pháp là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất, khẳng định nguyên tắc bình đẳng, công bằng, không phân biệt đối xử với tất cả mọi người trên mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội. Hiến pháp Việt Nam luôn ghi nhận các quyền con người, quyền công dân, khẳng định mọi thành viên, bao gồm cả người khuyết tật đều được Nhà nước bảo đảm quyền công dân như nhau và đều được hưởng các thành quả chung của sự phát triển xã hội.
Các bản Hiến pháp thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng về quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ những người tàn tật, bệnh tật, thương binh, bệnh binh: “Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều thứ 14 – Hiến pháp năm 1946); “Người lao động có quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chưc bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó” (Điều 31 – Hiến pháp năm 1959); “Công nhân, viên chức khi về hưu, già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội”, “Người già và người tàn tật không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 59, Điều 74 – Hiến pháp năm 1980); “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67 – Hiến pháp năm 1992). Điều đó cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm, chăm lo và tạo điều kiện cho người khuyết tật, đặc biệt trong bảo đảm an sinh xã hội và trợ giúp pháp lý cho đối tượng này.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã có những bước tiến quan trọng trong việc hiến định quyền của người khuyết tật và trách nhiệm chủ đạo của Nhà nước trong trợ giúp người khuyết tật, khi đặt ra mục tiêu: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác” và “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn;… tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề” (khoản 2 Điều 59 và khoản 3 Điều 61 – Hiến pháp năm 2013). Các quy định này cũng đặt ra những đòi hỏi quan trọng đối với nền quản trị quốc gia để đáp ứng yêu cầu được quan tâm, chăm sóc, bảo vệ và tạo điều kiện để người khuyết tật hoà nhập và phát triển.
Mặc dù Hiến pháp không quy định cụ thể về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật nhưng trên cơ sở các quy định về chăm lo, quan tâm, hỗ trợ người khuyết tật được ghi nhận trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật các thời kỳ quy định về quyền của người khuyết tật nói chung, quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật nói riêng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hoá quy định của Hiến pháp và phù hợp với nội dung Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật.
Sự ra đời của Pháp lệnh về người tàn tật (năm 1998) đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện chính sách đối với người tàn tật, đó là mốc son quan trọng trong pháp luật về người tàn tật. Pháp lệnh người tàn tật đã cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về quyền được Nhà nước và xã hội trợ giúp của người tàn tật, tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Trên cơ sở Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998, tại khoản 3 Điều 10 của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Khoản 4, Điều 2 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 đã quy định: người tàn tật không nơi nương tựa được trợ giúp pháp lý. Đây là những quy định cụ thể đầu tiên về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật thể hiện tinh thần nội dung của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật được pháp luật Việt Nam ghi nhận, ký kết và từng bước hoàn thiện.
Sau 10 năm triển khai thực hiện Pháp lệnh người tàn tật, để đáp ứng với tình hình thực tiễn, Quốc hội đã ban hành Luật Người khuyết tật năm 2010. Đây là văn bản do cơ quan có thẩm quyền cao nhất ban hành nhằm hệ thống và pháp điển hoá các quy định pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam. Điểm quan trọng cốt yếu của Luật Người khuyết tật năm 2010 đó chính là việc sử dụng thuật ngữ “khuyết tật” thay thế cho “tàn tật” trong Pháp lệnh năm 1998.
Việc ban hành Luật Người khuyết tật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đã dựa trên quan điểm, cách tiếp cận mới về người khuyết tật. Đó là sự thay đổi quan điểm, nhận thức về người khuyết tật là gánh nặng của xã hội, là đối tượng của từ thiện, nhân đạo sang tiếp cận ghi nhận, bảo vệ, tôn trọng, bảo đảm quyền của người khuyết tật và khẳng định người khuyết tật là một bộ phận không thể tách rời của sự phát triển xã hội. Luật được sửa đổi năm 2013 thể hiện sự ghi nhận những nỗ lực đóng góp của bản thân người khuyết tật và phù hợp với quan điểm tiếp cận về mặt xã hội theo tinh thần của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006. Điểm d khoản 1 Điều 4 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định: “Người khuyết tật được bảo đảm thực hiện quyền trợ giúp pháp lý” mà không đề cập đến việc có hay không có nơi nương tựa.
Có thể thấy rằng, quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật là một trong các quyền của người khuyết tật được khẳng định trong văn bản có giá trị pháp lý sau Hiến pháp, thể hiện sự ghi nhận và nội luật hoá quyền của người khuyết tật theo tinh thần của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật và Luật Nhân quyền quốc tế. Để triển khai thực hiện Luật Người khuyết tật, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1019/QĐ-BTP ngày 05/8/2012 phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020 với mục tiêu 90% người khuyết tật được trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu trong giai đoạn 2012 – 2015 và 100% người khuyết tật được trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu trong giai đoạn 2016 – 2020.
Nhằm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người khuyết tật, ngày 05/02/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, trong đó khoản 4 Điều 1 quy định: Tất cả những người khuyết tật theo Luật Người khuyết tật đều được trợ giúp pháp lý. Giai đoạn này là thời điểm pháp luật Việt Nam đã có những điều chỉnh tích cực, thiết lập khuôn khổ pháp lý ở mức cao nhất nhằm bảo đảm sự tương thích với Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật và các Công ước quốc tế khác có nội dung liên quan đến người khuyết tật.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được Quốc hội (khoá XIV) thông qua nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006. Theo quy định tại điểm d khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017: Người khuyết tật có khó khăn về tài chính là một trong những đối tượng được trợ giúp pháp lý. Tiếp đó, Nhà nước ban hành nhiều văn bản dưới luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, như: Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý; Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý; Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; Thông tư số 03/2020/TT-BTP ngày 28/4/2020 của Bộ Tư pháp ban hành quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý,…
Theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản có liên quan, việc bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, về lĩnh vực, hình thức trợ giúp pháp lý, Điều 27 – Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định: “Trợ giúp pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Các hình thức trợ giúp pháp lý bao gồm: a) Tham gia tố tụng; b) Tư vấn pháp luật; c) Đại diện ngoài tố tụng”. Trong đó, tham gia tố tụng là việc trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và của pháp luật về tố tụng (Điều 31).
Tư vấn pháp luật là việc người thực hiện trợ giúp pháp lý tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý bằng cách hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hoà giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc (Điều 32). Đại diện ngoài tố tụng là việc trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 33).
Thứ hai, về quyền của người được trợ giúp pháp lý, Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định người được trợ giúp pháp lý có các quyền sau đây:
“1. Được trợ giúp pháp lý mà không phải trả tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác. 2. Tự mình hoặc thông qua người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý. 3. Được thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý, trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý khi đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan nhà nước có liên quan. 4. Yêu cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc trợ giúp pháp lý. 5. Lựa chọn một tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý tại địa phương trong danh sách được công bố; yêu cầu thay đổi người thực hiện trợ giúp pháp lý khi người đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật này. 6. Thay đổi, rút yêu cầu trợ giúp pháp lý. 7. Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. 8. Khiếu nại, tố cáo về trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.”.
Như vậy, so với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, quyền của người trợ giúp pháp lý được quy định thêm các quyền mới, một số quyền rõ ràng và mở rộng hơn. Đó là: (1) Người được trợ giúp pháp lý không phải trả tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác, thể hiện rõ hơn tính chất miễn phí của dịch vụ này và trách nhiệm của Nhà nước trong công tác trợ giúp pháp lý. (2) Người được trợ giúp pháp lý không chỉ tự mình hoặc thông qua người thân thích, người đại diện mà còn thông qua cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý một cách tối đa nhất. (3) Người được trợ giúp pháp lý có quyền được thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý, trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý khi đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan nhà nước có liên quan, tạo sự thống nhất với quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng tại các văn bản luật hiện hành, hỗ trợ người được trợ giúp pháp lý nhận biết về quyền của mình để tiếp cận và sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu.
Thứ ba, nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý và phát triển dịch vụ trợ giúp pháp lý theo hướng chuyên nghiệp hóa là một trong những mục tiêu hoạt động trợ giúp pháp lý hướng tới thông qua các quy định về chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý (khoản 3 Điều 19 – Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017); tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý (Điều 14, Điều 15 – Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017); quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (Điều 39, 42 – Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017); tăng cường trách nhiệm, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý (Điều 41, 42, 43, 44 – Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017).
Để tiếp tục thực thi quyền được trợ giúp pháp lý của các đối tượng theo quy định, trong đó có người khuyết tật, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo ban hành các văn bản có liên quan đến việc xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý thông qua mạng lưới trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước, xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng năng lực đội ngũ trợ giúp viên pháp lý.
Với trách nhiệm là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03/2021/TT-BTP, ngày 25/5/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý; Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Đồng thời, Bộ Tư pháp phối hợp với các bộ, ngành có liên quan ban hành các văn bản phối hợp về trợ giúp pháp lý, như: Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022 giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân Tối cao về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án; Chương trình phối hợp số 5789/CTPH-BTP-BCA ngày 27/11/2023 giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an về trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự; Quy chế số 4617/QCPH/BTP-LĐLS ngày 28/12/2016 phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Liên đoàn luật sư Việt Nam về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021 – 2030 (theo Quyết định số 1190/QĐ-TTg ngày 05/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ) đặt ra mục tiêu 100% giai đoạn 2021 – 2025, 80% giai đoạn 2026 – 2030, người khuyết tật có khó khăn về tài chính được cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu nhằm tạo điều kiện hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng của mình, tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội.
3. Kết luận nghiên cứu quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật theo quy định của pháp luật Việt Nam và một số đề xuất, kiến nghị
Quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật đã được ghi nhận, khẳng định trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam trên cơ sở cụ thể hoá Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật. Các quy định về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật Việt Nam có sự kế thừa, thể hiện nhất quán, bổ sung và phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện theo các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế về quyền bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm người khuyết tật được trợ giúp để tiếp cận hệ thống tư pháp một cách hữu hiệu và bình đẳng như những đối tượng khác. Tuy nhiên các quy định về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam so với quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật theo pháp luật quốc tế (Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật) vẫn còn là những quy định mang tính nguyên tắc, chung chung, chưa cụ thể, đầy đủ, toàn diện và đề cập trực tiếp đến trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong việc bảo đảm quyền được hỗ trợ để người khuyết tật thực thi năng lực pháp lý của mình.
Hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam đã ban hành tương đối đầy đủ, toàn diện về quyền trợ giúp pháp lý, trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ trợ giúp pháp lý, hướng dẫn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, phối hợp trong hoạt động trợ giúp pháp lý… cho đối tượng yếu thế, trong đó có người khuyết tật. Tuy nhiên, về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật, cần có những quy định cụ thể để đảm bảo người khuyết tật tiếp cận hệ thống tư pháp (các cơ quan tư pháp, trung tâm trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý…); tiếp cận pháp luật (tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật dành riêng cho người khuyết tật để họ nhận thức được các quyền của mình, trong đó có quyền trợ giúp pháp lý…)
Quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật được quy định trong hai văn bản luật hiện hành là Luật Người khuyết tật năm 2010 và Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của Nhà nước và cộng đồng xã hội đối với người khuyết tật nhiều hơn so với các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định: Người khuyết tật được bảo đảm thực hiện quyền trợ giúp pháp lý, trong khi đó Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định: Người khuyết tật có khó khăn về tài chính là một trong nhữngđối tượng được trợ giúp pháp lý. Hơn nữa, điểm d khoản 1 Điều 4 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định: “Người khuyết tật được bảo đảm thực hiện quyền sau đây: …trợ giúp pháp lý…phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật”. Trong khi đó, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 chưa đề cập và phân biệt cơ chế trợ giúp pháp lý cho từng dạng tật và mức độ khuyết tật theo quy định của Luật Người khuyết tật năm 2010. Như vậy, về nội dung của luật còn có quy định chưa thống nhất, đồng bộ, đầy đủ về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật. Về hình thức, quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật phần lớn được quy định ở các văn bản dưới luật, chủ yếu là văn bản của Bộ Tư pháp, vì vậy giá trị pháp lý còn thấp, tính khái quát và ổn định chưa cao…
Từ những kết quả nghiên cứu đánh giá, xin đề xuất một số nội dung:
Một là, tiếp tục thực hiện hệ thống hoá và nội luật hoá đầy đủ, toàn diện các quyền của người khuyết tật được ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, trong đó có quyền trợ giúp pháp lý. Quan điểm nội luật hoá quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật bảo đảm tính kế thừa, phát triển, bổ sung và hoàn thiện theo hướng tiếp cận các nguyên tắc cơ bản về quyền con người (trong đó có nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật); tiếp cận quyền của người khuyết tật trên quan điểm, góc nhìn xã hội về vấn đề khuyết tật hơn là bản thân người khuyết tật; đồng thời quan tâm, chú trọng các quy định về cơ chế bảo đảm quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực pháp luật.
Hai là, cần bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý toàn diện, vững chắc bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật trên mọi phương diện, không chỉ là tiếp cận môi trường vật chất với các cơ quan tư pháp (tiếp cận trụ sở, nơi làm việc cơ quan tư pháp) mà còn là tiếp cận, trao đổi một cách hiệu quả đối với người thực hiện trợ giúp pháp lý, tiếp cận với pháp luật dành riêng cho người khuyết tật để họ nhận thức đầy đủ quyền của mình để tự bảo vệ hoặc yêu cầu trợ giúp pháp lý để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Ba là, sớm sửa đổi các quy định về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật trong Luật Người khuyết tật và Luật Trợ giúp pháp lý một cách đồng bộ, thống nhất nhằm bảo đảm tất cả người khuyết tật đều có quyền trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu phù hợp với từng dạng tật và mức độ khuyết tật của họ. Có thể nghiên cứu, tổng hợp, ban hành luật về quyền của người khuyết tật thay vì Luật Người khuyết tật trên cơ sở quan điểm tiếp cận dựa trên quyền nhằm đổi mới tư duy và nhận thức trước hết là của các nhà làm luật, sau đó là toàn xã hội và chính bản thân người khuyết tật về quyền của mình. Các quyền của người khuyết tật được quy định trong một văn bản luật thống nhất sẽ hạn chế sự chồng chéo, dàn trải quy định ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau; đồng thời mang lại hiệu lực, hiệu quả pháp lý cao.
4. Kết luận
Quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam đã được ghi nhận từ rất sớm qua các Hiến pháp và văn bản pháp luật về trợ giúp pháp lý, về người khuyết tật các thời kỳ. Việc ghi nhận này đã thể hiện sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước và xã hội đối với người khuyết tật trong trợ giúp pháp lý một cách phù hợp, tương thích theo pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam là thành viên. Từ những nghiên cứu, phân tích về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật trong pháp luật Việt Nam, cho thấy cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho người khuyết tật thực hiện các quyền của mình, trong đó, quyền trợ giúp pháp lý vừa là mục tiêu, vừa là công cụ quan trọng giúp người khuyết tật bình đẳng và hoà nhập cộng đồng.
Tài liệu tham khảo:
1. Tổng cục thống kê (2018). Việt Nam điều tra quốc gia người khuyết tật 2016. H. NXB Thống kê.
2. Trần Thái Dương (2014). Bảo đảm quyền tiếp cận công lý, quyền được trợ giúp pháp lý của người khuyết tật, sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế. Tạp chí Luật học, số 10 – 2014.
3. Trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật – Thực trạng và giải pháp. https://tgpl.moj.gov.vn.
4. Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội (khoá XI) (2006). Báo cáo kết quả giám sát thực hiện chính sách pháp luật về người cao tuổi, người tàn tật. H. NXB Lao động xã hội.