Tình hình thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục phổ thông trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

ThS. Phạm Công Hiệp
Trường Cán bộ quản lý giáo dục TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Là trung tâm trọng điểm kinh tế – tài chính cả nước với quy mô dân số lớn, mật độ dân cư đông, yêu cầu về giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng đối với TP. Hồ Chí Minh rất lớn và cấp bách, không chỉ phục vụ cho nhu cầu giáo dục của người dân Thành phố mà còn đáp ứng nguồn nhân lực cho sự phát triển Thành phố, khu vực phía Nam và cả nước. Để phát triển giáo dục phổ thông bảo đảm mục tiêu, yêu cầu đề ra của Luật Giáo dục và chỉ tiêu, kế hoạch, nhu cầu phát triển giáo dục của Thành phố đòi hỏi phải bảo đảm nguồn lực cho hoạt động giáo dục bao gồm nguồn lực do nhà nước đầu tư và nguồn lực huy động từ tham gia đóng góp của xã hội.

Từ khóa: Xã hội hóa giáo dục, giáo dục phổ thông, TP. Hồ Chí Minh.

1. Đặt vấn đề

Nhận thức vai trò, tầm quan trọng của các nguồn lực xã hội trong thực hiện hoạt động giáo dục. Những năm qua, chính quyền và ngành Giáo dục Thành phố đã cụ thể hóa chính sách, đề án, chương trình, kế hoạch, giải pháp quản lý để triển khai thực hiện xã hội hóa giáo dục và xã hội hóa giáo dục phổ thông. Việc thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục được tổ chức thực hiện trên cả hai mặt về mục tiêu và biện pháp tổ chức nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở giáo dục trong việc tích cực tiến hành công tác giáo dục và đào tạo theo nhu cầu xã hội, mở rộng hoạt động của nhà trường, đưa học sinh tiếp cận với thực tế địa phương. Đồng thời, để giải quyết vấn đề về nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đa dạng hóa loại hình, nâng chất lượng giáo dục, chính quyền Thành phố chủ trương thực hiện phát triển giáo dục theo định hướng: phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân1.

2. Kết quả xã hội hóa giáo dục phổ thông ở TP. Hồ Chí Minh

Tính đến từ năm 2017 kể từ khi Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh ban hành và triển khai thực hiện đề án xã hội hóa ngành Giáo dục thành phố, đến thời điểm hiện tại giáo dục phổ thông Thành phố hiện có 1.005 cơ sở giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông thuộc các loại hình công lập, dân lập, tư thục với 34.589 lớp học do 53.360 công chức, viên chức, nhân viên đảm nhận thực hiện hoạt động giáo dục cho 1.359.526 học sinh2; là địa phương có những điều kiện thuận lợi và khó khăn của một thành phố năng động, phong phú, có nhiều áp lực về chất lượng, số lượng theo yêu cầu phát triển của xã hội. Kết quả trên không chỉ là quá trình triển khai thực hiện đầu tư, sử dụng, phát huy hiệu quả nguồn lực công của nhà nước cho hoạt động giáo dục mà còn là quá trình thực hiện việc huy động, thu hút nguồn lực từ sự tham gia đóng góp của các thành phần xã hội vào giáo dục phổ thông trên nhiều phương diện.

Phát triển cơ sở giáo dục ngoài công lập: chính quyền TP. Hồ Chí Minh đã tập trung nguồn lực, phát triển mạnh việc xã hội hóa giáo dục loại hình cơ sở giáo dục ngoài công lập, đến nay số lượng trường ngoài công lập đạt 808, chiếm 37,27% tổng số trường trên địa bàn Thành phố là 2.168 trường, tăng 113% so với năm 2017 chỉ đạt 379 trường chiếm tỷ lệ 23,69% tổng số trường. Trong số trường THPT ngoài công lập là 82 trường chiếm 43,85% tổng số trường THPT; số trường tiểu học và THCS ngoài công lập lần lượt là 19 và 7 trường chiếm tỷ lệ 3,85% và 2,59% tổng số trường tiểu học và THCS3.

Bảng 1: Quy mô giáo dục phổ thông TP. Hồ Chí Minh từ năm 2017 đến 2024


Tiêu chí
TrườngLớp họcHọc sinhĐội ngũ giáo viênPhòng học
Công lậpNgoài công lậpCông lậpNgoài công lậpCông lậpNgoài công lậpCông lậpNgoài công lậpCông lậpNgoài công lập
Tiểu học4902615.8001.461634.48831.51320.1192.40414.7231.576
THCS2790710.242974431.26722.75716.6189189.2161.224
THPT113904.4971.615190.10549.3963.8201.4814.4432.230
Tổng cộng88212330.5394.0501.255.860103.66648.5574.80328.8325.030
1.00534.5891.359.52653.36033.862
Nguồn: Tổng hợp từ đề án xã hội hóa ngành Giáo dục TP. Hồ Chí Minh.

Đa dạng hóa các loại hình giáo dục: thông qua công tác xã hội hóa giáo dục đã góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo ngày càng cao của xã hội. Tạo điều kiện tăng thu nhập cho giáo viên, phù hợp với việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.

Xây dựng mô hình trường chất lượng cao: qua triển khai thực hiện thí điểm mô hình trường chất lượng cao với phương pháp giảng dạy hiện đại, giáo viên có điều kiện tìm hiểu và hướng dẫn từng học sinh rèn luyện nhân cách, xác định lý tưởng, hướng nghiệp và xây dựng phương pháp tự học cho học sinh trong quá trình dạy học; học sinh năng động, tự tin, bản lĩnh, sẵn sàng hội nhập, thân thiện, có đủ điều kiện phát triển toàn diện theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.

Việc đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất được tiến hành từng bước đã đáp ứng cơ bản yêu cầu giảng dạy tiên tiến, hiện đại. Xây dựng mức thu học phí phù hợp nhằm tạo động lực các trường của TP. Hồ Chí Minh nhanh chóng vươn lên đạt trình độ tiên tiến của khu vực, nâng cao tính cạnh tranh trong việc đào tạo nhân lực, nhân tài phục vụ việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mô hình trường tiên tiến đang thực hiện là khả thi và phù hợp, đáp ứng các nhu cầu học tập của học sinh, sự đòi hỏi của xã hội. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, đào tạo lớp thanh niên mới năng động, sáng tạo.

Nguồn lực tài chính cho hoạt động giáo dục: được bảo đảm bằng nguồn lực chi trả của nhà nước, chế độ học phí và nguồn tài trợ từ phụ huynh, các tổ chức xã hội đã góp phần thực hiện tốt hơn công bằng trong giáo dục, bảo đảm sự bình đẳng trong việc đóng góp của các gia đình, người học và điều chỉnh cơ cấu chi ngân sách, tạo sự bình đẳng về cơ hội học tập trong xã hội, nâng cao điều kiện tổ chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Chương trình kích cầu thông qua đầu tư của Thành phố thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo được quan tâm. Thành phố đã phê duyệt 59 dự án với tổng vốn đầu tư 7.160 tỷ, số vốn vay được ngân sách hỗ trợ là 3.022 tỷ4.

Nhận thức về chủ trương chính sách xã hội hóa giáo dục có sự chuyển biến rõ nét: qua tuyên truyền, phổ biến triển khai thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục, nhận thức của các ngành, các cấp và cộng đồng dân cư, các thành phần trong xã hội được nâng lên đặc biệt là các cấp uỷ Đảng, chính quyền đã nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của công tác xã hội hoá giáo dục góp phần phát triển kinh tế – xã hội và thực hiện an sinh xã hội. Nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia đóng góp, chung tay của cộng đồng xã hội vào hoạt động giáo dục theo tinh thần “giáo dục là sự nghiệp chung của toàn xã hội” không phải chỉ là việc riêng của chính quyền và ngành Giáo dục.

3. Tồn tại, hạn chế trong công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Tỷ lệ phát triển cơ sở giáo dục: đối chiếu với các tiêu chí quy định tại các văn bản của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao hiện nay TP. Hồ Chí Minh chưa đạt chỉ tiêu tỷ lệ học sinh ngoài công lập. Cụ thể, Nghị quyết số 35/NQ-CP quy định tỷ lệ cơ sở và số học sinh theo học tại các trường phổ thông ngoài công lập từ 2019 đến năm 2025 đạt lần lượt là 2,3% và 2,6% cơ sở giáo dục công lập; tỷ lệ ngoài công lập là 2,7% và 3%5, tỷ lệ này của giáo dục phổ thông thành phố đến thời hiện tại chỉ đạt được 1,3% cơ sở giáo dục ngoài công lập và 0,82% học sinh cơ sở giáo dục ngoài công lập6.

Nhận thức về xã hội hóa: một bộ phận cán bộ, Nhân dân còn chưa nhận thức đầy đủ nên thiếu tinh thần, trách nhiệm trong thực hiện công tác xã hội hóa, tốc độ xã hội hoá còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng và chưa huy động được tổng thể các nguồn lực để phát triển giáo dục và đào tạo của thành phố; nhận thức về xã hội hóa giáo dục vẫn còn có những mức độ khác nhau giữa các địa phương, đơn vị, tầng lớp nhân dân trong xã hội. Vẫn còn không ít cán bộ quản lý, giáo viên và phụ huynh hiểu xã hội hóa giáo dục đơn giản là bổ sung thêm cơ sở vật chất cho giáo dục trong khi mục tiêu chính là huy động nguồn lực toàn xã hội hỗ trợ cho các hoạt động giáo dục, đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục, đào tạo; chăm lo việc học hành của thế hệ trẻ, xây dựng phong trào học tập sâu rộng cho mọi người để tiến tới một xã hội học tập7.

Mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới và cơ chế hoạt động hiện tại của công tác quản lý giáo dục: nhu cầu học tập của người dân Thành phố rất lớn đòi hỏi nhiều loại hình đa dạng nhưng hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng còn hạn chế, cơ sở giáo dục ngoài công lập còn ít về số lượng, quy mô, chất lượng, khung giá dịch vụ giáo dục chưa hợp lý nên chưa thu hút đông đảo sự tham gia của người dân. Một số quận, huyện chưa bố trí kinh phí để thực hiện Đề án xây dựng xã hội học tập, hoạt động chủ yếu lồng ghép từ các chương trình mục tiêu, dự án nên hiệu quả hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng còn hạn chế.

Chế độ chính sách chưa đồng bộ, thiếu và chậm hướng dẫn cụ thể: cơ chế hoạt động của các trường công lập chưa phát huy hết khả năng tích cực và sáng tạo của cơ sở giáo dục, của giáo viên. Cơ chế tự chủ nhà trường về tài chính, học phí, tuyển dụng… chưa được quan tâm, tạo điều kiện thực hiện.

Tính bền vững của các loại hình cơ sở giáo dục phổ thông ngoài công lập: các cơ sở ngoài công lập tuy tăng nhanh về số lượng nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ bé, cơ sở vật chất còn hạn chế, phát triển không đồng đều, chủ yếu tập trung ở nội thành, nội thị, nơi đông dân, mức độ phát triển xã hội hoá còn thấp ở khu vực ngoại thành và vùng xa, vùng khó khăn, dịch vụ còn thiếu so với nhu cầu, chất lượng chuyên môn sâu chưa đạt được như khối công lập, đội ngũ cán bộ, giáo viên còn thiếu và yếu, chất lượng và hiệu quả hoạt động chưa cao.

Hiện tượng trông chờ, ỉ lại trong tham gia hoạt động giáo dục: tâm lý người dân vẫn còn trông chờ vào sự chăm lo của Nhà nước, chưa tin tưởng vào chất lượng của hệ thống trường ngoài công lập. Công tác quản lý các trường có yếu tố nước ngoài còn nhiều bất cập do chưa có đầy đủ hệ thống văn bản pháp lý. Việc liên kết, liên doanh, cho thuê cơ sở vật chất còn chưa khai thác hết công suất, các trường công lập hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn ràng buộc…

Chương trình kích cầu thông qua đầu tư của thành phố theo Quyết định số 50/2015/QĐ-UBND ngày 30/10/2015 của UBND TP. Hồ Chí Minh vẫn chưa thật sự phát huy tác dụng đối với trường học công lập do nguồn thu từ học sinh hạn chế, không bảo đảm kinh phí trả nợ vay trong vòng 7 năm; các trường học công lập không có khả năng đối ứng vốn khi tiếp cận với các tổ chức tín dụng.

Công tác quản lý nhà nước về giáo dục: quản lý hệ thống giáo dục còn nhiều bất cập, quản lý đứt khúc theo cơ cấu quản lý khác nhau của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; đầu tư thiếu tập trung và chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho địa phương.

4. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác về xã hội hóa giáo dục phổ thông ở TP. Hồ Chí Minh

Một là, nhận thức về xã hội hóa giáo dục và vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước về xã hội giáo dục. Tư duy về công tác quản lý giáo dục còn chậm đổi mới, chưa bắt kịp với tốc độ phát triển của kinh tế – xã hội, chưa có cơ chế, chính sách phù hợp nên công tác đổi mới còn chậm, vẫn còn tình trạng bao cấp, can thiệp, làm thay, chưa bảo đảm tính công bằng, minh bạch trong quản lý giữa các loại hình cơ sở giáo dục.

Hai là, việc ban hành cụ thể hóa chính sách xã hội hóa. Nghị định của Chính phủ có ban hành về việc thực hiện chính sách xã hội hóa các lĩnh vực, trong đó có giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên các bộ, ngành liên quan chưa thật sự quan tâm sâu sắc và nghiêm túc, chưa tìm được tiếng nói chung để thực hiện nên công tác xã hội hóa chưa có tín hiệu tích cực. Các quy định của Thành phố ban hành không còn phù hợp với thực tiễn yêu cầu giáo dục nên chưa phát huy hiệu quả.

Ba là, hệ thống văn bản pháp quy về thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục. Vẫn còn những mặt chưa được cụ thể hoá, tính pháp chế không khả thi, động viên khuyến khích là chủ yếu. Chưa xây dựng được chiến lược và cơ chế để tạo ra sự đồng thuận xã hội cao trong công tác xã hội hóa giáo dục, do đó giáo dục ở TP. Hồ Chí Minh còn gặp nhiều lúng túng trong việc quản lý các trường có yếu tố nước ngoài.

Bốn là, tổ chức bộ máy và cơ chế trong thực hiện công tác quản lý nhà nước về xã hội hóa giáo dục. Chính quyền còn xem nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của ngành Giáo dục, thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên. Việc kiện toàn, củng cố Ban Chỉ đạo xây dựng xã hội học tập, tổ chức các hội nghị, sơ kết chưa được chú trọng.

Năm là, sự phối hợp để thực hiện nhiệm vụ ở một số địa phương chưa chặt chẽ. Việc huy động các nguồn lực xã hội và phát huy các thiết chế văn hoá, thể dục, thể thao, trường học tham gia nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập còn hạn chế; các thành viên Ban Chỉ đạo xây dựng xã hội các cấp chưa dành nhiều thời gian để thực hiện các nhiệm vụ do Ban Chỉ đạo phân công. Hoạt động của một số trung tâm học tập cộng đồng chưa hiệu quả, các chuyên đề chưa đa dạng thiết thực, do đó chưa đáp ứng được nhu cầu học tập rộng lớn của người dân.

Sáu là, công tác quản lý cơ sở giáo dục. Một số cán bộ quản lý giáo dục còn thiếu nhiệt tình, chưa năng động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện cũng như trong tham mưu, đề xuất cho lãnh đạo địa phương, phòng, Sở Giáo dục và Đào tạo các biện pháp phù hợp nhằm thực hiện hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục; chưa coi trọng sự phối hợp với các tổ chức, lực lượng xã hội trong thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục như là một biện pháp quan trọng để thực hiện nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Việc sử dụng nguồn lực huy động từ xã hội về tài chính, vật chất, trí tuệ chưa được sử dụng hiệu quả, thiếu tính công khai, minh bạch nên chưa tạo sự an tâm, tin tưởng, tự nguyện của phụ huynh, gia đình, xã hội; cá biệt có cơ sở giáo dục tiến hành huy động nhiều lần với số tiền huy động không hợp lý; giá dịch vụ giáo dục ngoài công lập cao gây khó khăn, tạo gánh nặng cho học sinh và phụ huynh.

Bảy là, quy hoạch, kế hoạch, đề án xã hội hóa giáo dục. Quy hoạch phát triển hệ thống trường phổ thông ngoài công lập chưa thật sự hấp dẫn người dân đưa con em mình vào học do đa phần cơ sở vật chất trường lớp ngoài công lập là công trình thuê mướn, cải tạo công năng, diện tích nhỏ hẹp, trang thiết bị thiếu thốn; giáo dục toàn diện chưa được chú trọng, vấn đề học phí chưa phù hợp với khả năng tài chính của phần đông nhân dân thành phố.

Tám là, công tác tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật, đề án, chương trình, kế hoạch thực hiện xã hội hóa giáo dục. Việc thực hiện tuyên truyền ở một số cơ quan, địa phương chưa được quán triệt đều khắp trong các lực lượng xã hội, chưa quán triệt sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của xã hội hóa giáo dục. Chưa khai thác, sử dụng hiệu quả các phần mềm ứng dụng và trang mạng xã hội để phổ biến chủ trương, chính sách, đề án, chương trình kế hoạch và giải pháp quản lý nhà nước về xã hội hóa giáo dục…

5. Kết luận

Kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với cộng tác xã hội hóa giáo dục phổ thông TP. Hồ Chí Minh thời gian qua, ngoài nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách, nhận thức, ý thức của các thành phần xã hội, hiệu quả của công tác tổ chức và triển khai thực hiện xã hội hóa giáo dục phổ thông, còn nguyên nhân thuộc về nội dung, giải pháp, trách nhiệm trong thực hiện công tác quản lý nhà nước về giáo dục và xã hội hóa giáo dục phổ thông của các chủ thể quản lý nhà nước trên địa bàn.

Để tiếp tục phát huy kết quả đồng thời khắc phục hạn chế đối với công tác xã hội hóa giáo dục phổ thông thời gian tới, trong triển khai thực hiện đề án xã hội hóa phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2022 đến 2025, tầm nhìn đến năm 2030 cần nghiên cứu, xây dựng và xác lập mục tiêu, phương hướng, giải pháp, cơ chế, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với giáo dục và xã hội hóa giáo dục phổ thông gắn với chủ trương, chính sách, pháp luật về xã hội hóa, cơ chế, chính sách đặc thù của Thành phố, thể hiện vai trò Nhà nước chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục. Thực hiện đa dạng hóa các loại hình cơ sở giáo dục và hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục; khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục dân lập, tư thục đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao8 nhằm đáp nhu cầu giáo dục của xã hội và yêu cầu đổi mới giáo dục đặt ra.

Chú thích:
1, 8. Quốc hội (2019). Luật Giáo dục năm 2019.
2, 4, 6. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2022). Công văn số 4889/UBND-VX ngày 16/12/2022 về việc báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/6/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2025.
3, 7. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2022). Quyết định số 3766/2023/QĐ-UBND ngày 17/3/2022 ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/6/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2022 – 2025.
5. Chính phủ (2019). Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/6/2019 về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2015). Quyết định số 39/2015/QĐ-UBND ngày 11/8/2015 quy định chế độ miễn, giảm tiền thuê đất đối với các cơ sở thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, môi trường, giám định tư pháp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
2. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2017). Quyết định số 3861/QĐ-UBND ngày 18/7/2017 ban hành kế hoạch đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2017-2020.
3. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2024). Quyết định số 192/QĐ-UBND ngày 16/01/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục TP. Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
4. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2023). Quyết định số 766/2022/QĐ-UBND ngày 06/9/2023 về việc phê duyệt Đề án xã hội hóa phát triến giáo dục và đào tạo trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2022 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
5. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2022). Quyết định số 3766/QĐ-UBND ngày 17/3/2022 ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/6/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2022 – 2025.
6. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2024). Quyết định số 4393/QĐ-UBND ngày 03/10/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
7. Sở Giáo dục và Đào tạo (2023). Kế hoạch số 7391/KH-SGDĐT ngày 15/12/2023 triển khai thực hiện Đề án Xã hội hóa phát triển lĩnh vực giáo dục và đào tạo TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2023 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030.