Phát triển khu công nghiệp sinh thái ở thành phố Đà Nẵng: tiềm năng, thực trạng và một số vấn đề đặt ra 

NCS. Lê Thị Tố Nga 
Phân hiệu Học viện Hành chính Quốc gia tại tỉnh Quảng Nam
NCS. Nguyễn Quỳnh Trang
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Theo quy hoạch phát triển thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 và lộ trình phát triển kinh tế tuần hoàn đến năm 2030, thành phố Đà Nẵng đặt mục tiêu đến năm 2025, có ít nhất 1 khu công nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn khu công nghiệp sinh thái theo tiêu chuẩn quốc gia; đến năm 2030, có 2 – 3 khu công nghiệp sinh thái. Với nhiều tiềm năng thuận lợi về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, công cuộc chuyển đổi mô hình khu công nghiệp sinh thái ở Đà Nẵng đã và đang đạt được một số thành tựu cơ bản. Bài viết phân tích những tiềm năng cho việc hình thành khu công nghiệp sinh thái ở thành phố Đà Nẵng, thực trạng triển khai và một số vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Đà Nẵng hiện nay.

Từ khóa: Thành phố Đà Nẵng; khu công nghiệp; sinh thái; phát triển; thực trạng.  

1. Đặt vấn đề

Là một định hướng quan trọng trong phát triển kinh tế tuần hoàn, khu công nghiệp sinh tháimang lại những lợi ích đa dạng và có đóng góp vào sự phát triển bền vững trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Tại Đà Nẵng, việc phát triển các khu công nghiệp và khu công nghệ cao trên địa bàn đã góp tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần giải quyết nhu cầu việc làm cho một bộ phận lao động tại thành phố Đà Nẵng cũng như các tỉnh lân cận. Những năm qua, Đà Nẵng đã phát huy lợi thế vị trí địa lý, điều kiện hạ tầng về giao thông, thu hút đầu tư hiệu quả vào các khu công nghiệp và khu công nghệ cao tạo ra đột phá, thúc đẩy ngành công nghiệp của thành phố phát triển, góp phần then chốt vào sự phát triển của kinh tế Đà Nẵng. 

2. Tiềm năng phát triển khu công nghiệp sinh thái ở thành phố Đà Nẵng

a. Về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội

Là thành phố có nhịp độ phát triển sôi động vào bậc nhất ở khu vực miền trung hiện nay, Đà Nẵng có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đa dạng các loại hình kinh tế, trong đó có khu công nghiệp, đặc biệt là việc phát triển mô hình khu công nghiệp sinh thái. Nằm ở trung độ của đất nước, trên quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam, thành phố Đà Nẵng nối với Tây Nguyên và là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước và vùng lãnh thổ Đông Bắc Á thông qua hành lang kinh tế Đông – Tây. Bên cạnh đó, Đà Nẵng còn có các tuyến giao thông quan trọng như đường sắt liên vận quốc tế Trung Quốc – ASEAN đi qua, cảng biển và sân bay quốc tế. Đà Nẵng chỉ cách trung tâm kinh tế phát triển của các nước Đông Nam Á, khu vực Thái Bình Dương trong phạm vi bán kính khoảng 2.000 km1, vì thế rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế – văn hóa. 

Năm 2022, dân số của thành phố Đà Nẵng là 1.220.190 người, với mật độ dân số là hơn 950 người/km2. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm hơn 51% dân số thành phố, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60%. Năng suất lao động năm 2022 đạt 173,4 triệu đồng/người 3, cao nhất trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Đây chính là nguồn lao động dồi dào cho phát triển việc phát triển đa dạng các loại hình kinh tế, trong đó có các khu công nghiệp. Đà Nẵng có cơ sở hạ tầng phát triển; hạ tầng công nghệ – thông tin truyền thông tại thành phố đã đạt tiêu chuẩn quốc tế. 

Những năm qua, Đà Nẵng  đã đạt được rất nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế – xã hội. Tăng trưởng kinh tế (GRDP) của Đà Nẵng 6 tháng đầu năm 2024, ước tăng 5,00%, thu hút gần 14.000 tỷ đồng vốn đầu tư, trong đó cấp mới 27 dự án FDI với vốn đăng ký hơn 22 triệu USD, thu ngân sách đạt 70% dự toán được giao. Trong đó, quý II/2024, GRDP của Đà Nẵng tăng 8,35%4. Tốc độ tăng GRDP của thành phố cao hơn mức bình quân chung của cả nước, giá trị sản xuất các mặt hàng công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản phát triển toàn diện. Cơ cấu kinh tế Đà Nẵng có chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, phù hợp với xu thế chung của cả nước và những đô thị lớn. 

Đà Nẵng có môi trường sống an toàn, an ninh. Thành phố có nhiều chính sách, chương trình xã hội giàu tính nhân văn, như: “Thành phố 5 không”, “Thành phố 3 có” và “Thành phố 4 an” đã và đang được triển khai. Thành phố được công nhận là một trong những thành phố sạch nhất Việt Nam vàbước đầu đã đạt được các mục tiêu quan trọng về: chỉ số ô nhiễm không khí (API) trong khu vực đô thị; độ ồn tại khu dân cư; đường phố nhỏ hơn 75dbA; diện tích không gian xanh đô thị;  tỷ lệ hộ dân sử dụng nước; tỷ lệ nước thải công nghiệp đạt yêu cầu; tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt khu vực đô thị; tỷ lệ xử lý đạt quy chuẩn…

b. Về môi trường thể chế

Đà Nẵng cũng là nơi có môi trường thể chế thông thoáng và thuận lợi, minh bạch. Thành phố luôn tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương, nhờ đó đã thúc đẩy và hỗ trợ cho các lĩnh vực kinh tế – xã hội phát triển. Qua 4 năm thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 09/6/2020 của Quốc hội, Đà Nẵng đã đạt được những kết quả tích cực về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và việc đẩy mạnh cơ chế phân cấp, ủy quyền từ chính quyền thành phố cho chính quyền quận, phường. Hệ thống quy định, chính sách và thủ tục hành chính được cải cách và tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp.

Đặc biệt, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã sớm quan tâm đến vấn đề giữ gìn và bảo vệ môi trường nhằm hướng đến phát triển bền vững thành phố cũng như có nhiều hoạt động tích cực trong thiết kế các lĩnh vực kinh tế – xã hội theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Tháng 8/2022, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Đà Nẵng ban hành lộ trình phát triển kinh tế tuần hoàn và phát triển khu công nghiệp sinh thái được lựa chọn là 1 trong 7 lĩnh vực trọng tâm để phát triển kinh tế tuần hoàn tại Đà Nẵng giai đoạn 2022 – 2030 

Trước đó, chính quyền thành phố Đà Nẵng cũng đã có rất nhiều biện pháp nhằm xây dựng và bảo vệ môi trường thành phố. Từ năm 2008, thành phố Đà Nẵng đã ban hành Đề án: “Xây dựng Đà Nẵng – thành phố môi trường” cho giai đoạn 2008 – 2020. Năm 2021, UBND thành phố tiếp tục ban hành Quyết định số 1099/QĐ-UBND phê duyệt Đề án “Xây dựng Đà Nẵng  thành phố môi trường” giai đoạn 2021 – 2030. Bên cạnh đó, Đà Nẵng cũng đã ban hành rất nhiều các văn bản quan trọng khác tạo tiền đề cho quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, sử dụng năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn năng lượng, phát triển kinh tế tuần hoàn.

c. Về phát triển các khu công nghiệp

Thành phố Đà Nẵng hiện có 6 khu công nghiệp với diện tích 1.066,52 ha, tỷ lệ lấp đầy gần 90%đã đi vào hoạt động, bao gồm: Hòa Khánh, Đà Nẵng, Liên Chiểu, Hòa Khánh mở rộng, Hòa Cầm – Giai đoạn 1, Dịch vụ thủy sản Đà Nẵng. Trong đó, khu công nghệ cao Đà Nẵng là một trong ba khu công nghệ cao đa chức năng cấp quốc gia của Việt Nam và là khu công nghệ cao quốc gia duy nhất tại miền Trung được Thủ tướng Chính phủ thành lập năm 20105. Các khu công nghiệp của thành phố Đà Nẵng đều nằm ở các vị trí rất thuận lợi, có cơ sở hạ tầng được hoàn thiện nhằm đáp ứng các điều kiện cơ bản của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. 

Khu công nghiệp tạo giá trị và sản phẩm công nghiệp chính và là nguồn đóng góp ngân sách chủ yếu của thành phố Đà Nẵng. Các dự án trong các khu công nghiệp tại Đà Nẵng hiện nay tập trung ở 3 nhóm ngành chính bao gồm: sản xuất, gia công hàng hóa; kho bãi và dịch vụ logistic. Cùng với sự gia tăng số lượng dự án, sản lượng sản phẩm công nghiệp cũng gia tăng. Nhiều dự án có sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Các dự án FDI đầu tư vào khu công nghiệpkhông nhiều dự án lớn so với các tỉnh, nhưng hoạt động hiệu quả và đầu tư lâu dài. Cơ cấu giá trị tăng thêm ngành công nghiệp thành phố có chuyển dịch tương đối tích cực theo định hướng đề ra. Các khu công nghiệp và khu công nghệ cao tại thành phố đều hoạt động tốt với tổng số lượng các doanh nghiệp đang hoạt động là hơn 583 doanh nghiệp, số lượng lao động hơn 67.592 người6. Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các khu công nghiệp và khu công nghệ cao khá đa dạng. Công tác an ninh trật tự tại các khu công nghiệp và khu công nghệ cao cơ bản bảo đảm. 

3. Thực trạng phát triển khu công nghiệp sinh thái ở thành phố Đà Nẵng

a. Định hướng phát triển khu công nghiệp sinh thái

Quy hoạch thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1287/QĐ-TTg ngày 02/11/2023 xác định: xây dựng Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ của cả nước. Đà Nẵng sẽ tiếp tục chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng giảm dần các ngành sản xuất thâm dụng đất đai, lao động, giá trị gia tăng thấp, hạn chế và tiến tới loại bỏ các ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường; tăng tỷ trọng các ngành, lĩnh vực sản xuất có hàm lượng cao về công nghệ, tri thức, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường. Quy hoạch cũng đặt ra nhiệm vụ chuyển đổi khu công nghiệp Hòa Khánh đáp ứng tiêu chí mô hình khu công nghiệp sinh thái.

Năm 2021, Hội đồng nhân dân thành phố đã ban hành Nghị quyết số 53/2021/NQ-HĐND quy định chính sách phát triển công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Nội dung của chính sách chủ yếu tập trung hỗ trợ đào tạo nghề, chuyền nghề và nâng cao tay nghề; hỗ trợ nâng cao năng lực quản lý cho các cơ sở sản xuất, nhận thức và năng lực áp dụng sản xuất sạch hơn; hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, mô hình thí điểm về áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp cho các cơ sở sản xuất công nghiệp; hỗ trợ ứng dụng máy móc, thiết bị tiên tiến;… 

Theo đề án: “Xây dựng Đà Nẵng – thành phố môi trường” giai đoạn 2021- 2030 và lộ trình phát triển kinh tế tuần hoàn tại thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, Đà Nẵng đặt mục tiêu đến năm 2025, thành phố có ít nhất 1 khu công nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn khu công nghiệp sinh thái theo tiêu chuẩn quốc gia và đến năm 2030, có 2 – 3 khu công nghiệp sinh thái.

b. Việc chuyển đổi sang mô hình khu công nghiệp sinh thái tại khu công nghiệp Hòa Khánh

Khu công nghiệp Hòa Khánh được thành lập theo Quyết định 343/QĐ-TTg ngày 18/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ, là một phần của khu công nghiệp Liên Chiểu – Hòa Khánh trước đây và được giao cho Công ty Hợp doanh Xây lắp và Kinh doanh nhà Quảng Nam – Đà Nẵng làm chủ đầu tư với diện tích quy hoạch là 423,5 ha và tổng vốn đầu tư là 49,956 triệu USD7. Trải qua nhiều lần sửa đổi, điều chỉnh, hiện nay, khu công nghiệp Hòa Khánh được quy hoạch với tổng diện tích là 395,72 ha theo Quyết định số 7161/QĐ-UBND ngày 18/9/2009 của UBND thành phố Đà Nẵng. Kể từ khi thành lập, khu công nghiệp Hoà Khánh đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp của thành phố Đà Nẵng.

Bảng 1. Hiện trạng hoạt động tại khu công nghiệp Hòa Khánh8

STTNội dungTình trạng
1Diện tích (ha)394
2Tỷ lệ lấp đầy (%)100
3Số lượng doanh nghiệp đang hoạt động (doanh nghiệp)230
4Số lượng lao động trong khu công nghiệp (người)Hơn 40.000
5Tiếp cận phương tiện công cộng (xe buýt, tàu hỏa, tàu bay,…) trong khoảng bán kính 1 – 3 km
6Định hướng chiến lược/kế hoạch phát triển khu công nghiệpPhát triển mô hình KCN sinh thái
7Loại hình khu công nghiệpKhu chế xuất (%)33,34
KCN hỗ trợ (%) 
KCN sinh thái (%)8,33
KCN đô thị – dịch vụ (%)50
Khác (%)8,33
8Tình hình hoạt độngHoạt động tốt (%)91,67
Hoạt động cầm chừng8,33
9Các lĩnh vực hoạt động chủ yếuCông nghiệp/ chế tạo (%)91,67
Xây dựng/ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (%)25
Dịch vụ/ Thương mại (%)8,33
10Thu nhập bình quân tháng/người lao động (không làm lãnh đạo, quản lý)Từ 5 – 7 triệu đồng (%)75
Từ 7 – 10 triệu đồng (%) 25
11Công tác an ninh trật tự Bảo đảm tốt (%) 75
Bảo đảm (%) 25
12Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp có áp dụng Hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp (OHSMS) Có (%) 41,67
Không (%) 16,66
Không biết (%) 41,67
Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng, năm 2023.

Năm 2023, Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng đã thực hiện đánh giá sơ bộ về mức độ đáp ứng các tiêu chí khu công nghiệp sinh thái của các khu công nghiệp và khu công nghệ cao trên địa bàn thành phố theo Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ thông qua khảo sát ý kiến của các nhà chuyên môn, cán bộ lãnh đạo – quản lý. Theo đó, khu công nghiệp Hòa Khánh có mức độ đáp ứng cao đối với các tiêu chí9:

Tiêu chí 1. Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp tuân thủ quy định của pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, xây dựng, đất đai, bảo vệ môi trường và pháp luật về lao động với 83,33% ý kiến đánh giá đáp ứng.

Tiêu chí 2. Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp bảo đảm đầy đủ các dịch vụ cơ bản trong khu công nghiệp theo quy định của pháp luật với 58,33% ý kiến đánh giá đáp ứng; có 41,67% ý kiến trả lời “không biết”.

Tiêu chí 3. Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giám sát đầu vào và đầu ra về sử dụng nguyên liệu, vật liệu, nước, năng lượng, hóa chất, chất thải, phế liệu trong khu công nghiệp; lập báo cáo định kỳ hằng năm về các kết quả đạt được trong sử dụng hiệu quả tài nguyên, sản xuất sạch hơn và giám sát phát thải của khu công nghiệp, báo cáo Ban Quản lý khu công nghiệp với 50% ý kiến đánh giá đáp ứng; có 41,67% ý kiến trả lời “không biết”.

Tiêu chí 4. Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp hằng năm công bố báo cáo thực hiện bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng xung quanh gửi Ban Quản lý khu công nghiệp và đăng trên website của doanh nghiệp với 50% ý kiến đánh giá đáp ứng; có 50% ý kiến trả lời “không biết”.

Tiêu chí 5. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp thực hiện ít nhất 1 cộng sinh công nghiệp và các doanh nghiệp tham gia cộng sinh công nghiệp trong khu công nghiệp áp dụng hệ thống quản lý sản xuất và môi trường theo các tiêu chuẩn của Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) phù hợp với 41,67% ý kiến đánh giá đáp ứng; có 50% ý kiến trả lời “không biết”.

Tiêu chí 7. Tỷ lệ doanh nghiệp trong khu công nghiệp áp dụng các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên, sản xuất sạch hơn đạt kết quả tiết kiệm nguyên liệu, vật liệu, nước, năng lượng, hóa chất, chất thải, phế liệu và giảm phát thải ra môi trường: 41,67% ý kiến đánh giá đáp ứng; có 50% ý kiến trả lời “không biết”.

Đối với các tiêu chí khác, vẫn còn các ý kiến đánh giá khác nhau từ các nhà chuyên môn, cán bộ lãnh đạo – quản lý. Cụ thể là:

Tiêu chí 8, đáp ứng tỷ lệ 25% và 42,86%; Tiêu chí 9, đạt tỷ lệ 15%; Tiêu chí 10, đạt tỷ lệ 30%; Tiêu chí 11, đạt tỷ lệ 25 % tương ứng với 2 lựa chọn “có” và “không biết”. Riêng đối với Tiêu chí 12, có 66,7% người được hỏi trả lời “không biết”, số còn lại cho biết không có thông tin. Đối với các ý kiến trả lời “không” hoặc “không biết”, lý do đưa ra là chưa có hướng dẫn cụ thể để đánh giá các tiêu chí này hoặc các tiêu chí còn mang tính chung chung, chưa có quy định và hướng dẫn về quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể. 

Như vậy, đối chiếu với các nhóm tiêu chí về khu công nghiệp sinh thái theo Nghị định số35/2022/NĐ-CP, hiện nay khu công nghiệp Hòa Khánh còn chưa đáp ứng 2 tiêu chí. Một là, tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng các giải pháp hiệu quả tài nguyên và sản xuất sách hơn RECP còn thấp (chưa đến 20% doanh nghiệp sản xuất); trong đó thiếu nguồn tín dụng xanh là một trong các rào cản chủ yếu. Hai là, việc phát triển mở rộng các mô hình cộng sinh công nghiệp còn rất hạn chế; các mô hình thí điểm hiện tại chưa thật sự bền vững. Việc tuần hoàn chất thải vẫn yêu cầu nhiều thủ tục pháp lý, khiến doanh nghiệp trong khu công nghiệp chưa có nhiều động lực thực hiện.

4. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển khu công nghiệp sinh thái ở thành phố Đà Nẵng

Thứ nhất, phát triển khu công nghiệp sinh thái là cách tiếp cận phức tạp, yêu cầu sự đồng thuận của nhiều bên và đòi hỏi có sự đầu tư nguồn lực tài chính lớn. Thực tế cho thấy, những khó khăn lớn trong việc chuyển đổi các khu công nghiệp đã hoạt động đáp ứng các tiêu chí của khu công nghiệp sinh thái hiện nay tại thành phố Đà Nẵng là việc cạn quỹ đất, thiếu vùng đệm và giải pháp thu hút doanh nghiệp có khả năng tuần hoàn chất thải để thúc đẩy cộng sinh công nghiệp tại các khu công nghiệp. Mặt khác, khoảng cách giữa khu công nghiệp và khu dân cư không bảo đảm để bố trí khu vực tập kết, xử lý chất thải tập trung. Một số doanh nghiệp có khả năng tuần hoàn chất thải nhưng rất khó bố trí trong khu công nghiệp. Hiện nay, ở khu công nghiệp Hòa Khánh đã tồn tại một số mô hình tuần hoàn chất thải, nhưng hầu hết là tự phát và ở quy mô nhỏ.

Thứ hai, thực tế từ sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp sinh thái trên thế giới đã chỉ ra rằng, mặc dù cần có sự hỗ trợ của chính phủ nhưng sáng kiến ​​​​cho dự án khu công nghiệp sinh thái phải do chính các doanh nghiệp liên quan thực hiện. Tuy nhiên, thực trạng ở Đà Nẵng cho thấy, trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp còn hạn chế, mối quan tâm của chủ doanh nghiệp trong các khu công nghiệp chủ yếu vẫn chỉ tập trung cho các vấn đề ngắn hạn, chưa đặt ưu tiên cho trách nhiệm môi trường, chưa hiểu rõ mối liên kết giữa cả 3 yếu tố kinh tế – xã hội – môi trường trong sản xuất, do đó, chưa chủ động để thực sự trở thành chủ thể chính của quá trình chuyển đổi mà vẫn còn phụ thuộc vào hỗ trợ từ bên ngoài hoặc chuyển đổi do áp lực từ các chế tài mang tính chất cưỡng ép.

Thứ ba, đối với các khu công nghiệp sinh thái, bên cạnh động lực chính để phát triển là lợi ích kinh tế và các yêu cầu pháp lý, sự giao tiếp và niềm tin giữa các nhà quản lý doanh nghiệp cũng được coi là yếu tố thúc đẩy cộng sinh công nghiệp. Việc phát triển khu công nghiệp sinh thái yêu cầu mức độ giao tiếp, tin cậy và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong việc chia sẻ thông tin, kết nối thực hiện các giải pháp hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn cũng như xây dựng mạng lưới cộng sinh công nghiệp. 

Tuy nhiên, ở các khu công nghiệp tại Đà Nẵng hiện nay, sự thiếu lòng tin vào bạn hàng, đối tác và thiếu tính liên kết, tư duy “đóng cửa” khiến các doanh nghiệp không sẵn sàng chia sẻ thông tin và đón nhận các cơ hội. Để duy trì tính cạnh tranh, các công ty không muốn tiết lộ quy trình sản xuất, nguyên liệu đầu vào và các sản phẩm phụ có thể được tái sử dụng làm giảm đáng kể các tiềm năng hình thành mạng lưới cộng sinh công nghiệp. Các số liệu về doanh nghiệp và các khu công nghiệp sẵn có hiện nay còn rời rạc, thiếu tính hệ thống và lưu trữ kém là rào cản đối với công tác phân tích đề xuất chính sách và lộ trình chuyển đổi (tầm chiến lược) và đề xuất các giải pháp thực hiện (vi mô) phục vụ các nghiên cứu, phân tích chuyển đổi khu công nghiệp sinh thái.

Thứ tư, khó khăn trong huy động các nguồn tài chính. Sự hạn chế của các nguồn vốn hỗ trợ đổi mới công nghệ, các nguồn hỗ trợ nếu có thì thủ tục thực hiện phức tạp và mất nhiều thời gian khiến cho các doanh nghiệp rất ngại tiếp cận và xin hỗ trợ. Nhiều quỹ tài chính xanh, như: Quỹ Ủy thác tín dụng xanh, Quỹ hỗ trợ tăng trưởng xanh, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ Bảo vệ môi trường… đã tạm ngưng các khoản vay hỗ trợ đổi mới công nghệ hoặc thắt chặt các chính sách, đối tượng cho vay. Trong bối cảnh nền kinh tế vẫn đang từng bước phục hồi sau dịch Covid – 19, tác động của việc đứt gãy chuỗi cung ứng dự báo vẫn sẽ ảnh hướng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong những năm tới, việc thiếu các nguồn tài chính xanh sẽ là rào cản cho các doanh nghiệp muốn đổi mới dây chuyền sản xuất.

Thứ năm, về phía thể chế, mặc dù Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ra đời đã khắc phục những hạn chế của Nghị định 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2022 của Chính phủ hoàn thiện các quy định pháp lý tạo điều kiện cho sự phát triển của mô hình khu công nghiệp sinh thái ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai, có thể dễ dàng nhận thấy những bất cập trong quy định của Nghị định này. Các quy định còn chung chung, chưa có hướng dẫn thực hiện cụ thể; lộ trình xây dựng khu công nghiệp sinh thái từ giai đoạn thí điểm đến chính thức cũng chưa được định hình rõ. Mặt khác, một số tiêu chí đánh giá khu công nghiệp sinh thái, như tiêu chí: “Tỷ lệ diện tích đất cây xanh, giao thông, các khu kỹ thuật và hạ tầng xã hội dùng chung trong khu công nghiệp đạt 25%” trước đây đã quy định trong Nghị định số 82/2018/NĐ-CP vẫn tiếp tục được kế thừa mà chưa có hướng dẫn dù cho trước đó đã gây ra rất nhiều trở ngại trong quá trình đánh giá các khu công nghiệp sinh thái.

5. Kết luận

Việc xây dựng mô hình khu công nghiệp sinh thái là nhiệm vụ hết sức quan trọng, là xu thế tất yếu trong thời gian tới nhằm giải quyết triệt để ảnh hưởng của các khu công nghiệp đến môi trường tự nhiên và tuân thủ các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Trong thời gian tới, để tiếp tục khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển mô hình khu công nghiệp sinh thái ở Đà Nẵng, cần có sự hỗ trợ thường xuyên và tích cực từ phía chính quyền địa phương với đa dạng các hình thức và phương pháp hỗ trợ nhằm bảo đảm hoàn thành mục tiêu phát triển khu công nghiệp sinh thái theo định hướng mà thành phố đã đề ra trong các văn bản hiện hành.

Chú thích:
1 .Số liệu thống kê thành phố Đà Nẵng. https://vukehoach.mard.gov.vn/atlas/prov/danang/danang.html, truy cập ngày 09/8/2024.
2. Dân số Đà Nẵng. https://danso.info/dan-so-da-nang, truy cập ngày 09/8/2024.
3. Năng suất lao động xã hội phân theo ngành kinh tế. https://danang.gov.vn/web/chuyen-trang-thong-tin-kinh-te-xa-hoi/nien-giam-thong-ke/danh-sach/chi-tiet?
4. Kinh tế Đà Nẵng 6 tháng đầu năm 2024 có nhiều khởi sắc. https://danang.gov.vn/chinh-quyen/chi-tiet?id=59658&_c=3, ngày 04/7/2024.
5, 6. Khu công nghệ cao Đà Nẵng. https://danang.gov.vn/doanh-nghiep/chi-tiet? truy cập ngày 28/7/2024.
7, 8, 9. Tác giả tổng hợp và sử dụng số liệu từ nguồn do Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Đà Nẵng cung cấp năm 2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2022). Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế.
2. Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (2021). Nghị quyết số 53/2021/NQ-HĐND ngày 17/12/2021 quy định chính sách phát triển công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2018). Quyết định số 33/2018/QĐ-UBND ngày 01/10/2018 của ban hành Quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4. Phát triển khu công nghiệp sinh thái – sự lựa chọn phát triển kinh tế bền vững của tỉnh Quảng Ngãi. https://www.quanlynhanuoc.vn/2022/05/17/phat-trien-khu-cong-nghiep-sinh-thai-su-lua-chon-phat-trien-kinh-te-ben-vung-cua-tinh-quang-ngai/
5. Một số giải pháp hoàn thiện vai trò của Nhà nước trong phát triển khu công nghiệp sinh thái ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/07/11/mot-so-giai-phap-hoan-thien-vai-tro-cua-nha-nuoc-trong-phat-trien-khu-cong-nghiep-sinh-thai-o-viet-nam-hien-nay/