(Quanlynhanuoc.vn) – Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân do Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức diễn ra vào sáng ngày 18/5. Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tiếp từ Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội và kết hợp trực tuyến tới 37.000 điểm cầu ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, cơ quan, đơn vị trên cả nước, với hơn 1,5 triệu đại biểu tham dự Hội nghị tại các điểm cầu.
Theo chương trình, tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày Chuyên đề “Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW”. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trình bày chuyên đề “Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW”.
Tổng Bí thư Tô Lâm có phát biểu quan trọng chỉ đạo Hội nghị.
Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Nguyễn Trọng Nghĩa có phát biểu tiếp thu ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và hướng dẫn việc quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Cần tạo động lực, truyền cảm hứng cho doanh nhân và phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu
Trình bày Chuyên đề về nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết, Thủ tướng tập trung trình bày 5 nhóm nội dung chủ yếu: (1) Khái quát thực trạng khu vực kinh tế tư nhân; (2) Các nội dung cốt lõi của Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị; (3) Các nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động của Chính phủ; (4) Các nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội; (5) Tổ chức thực hiện.

Thủ tướng cho biết trong gần 40 năm qua, từ khi Đổi mới đến nay, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với kinh tế tư nhân đã được thể hiện rất rõ tại các văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, các luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị định, nghị quyết của Chính phủ cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.
Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) khẳng định sự tồn tại của kinh tế tư nhân gắn với nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó nêu rõ “sử dụng kinh tế tư bản tư nhân trong một số ngành, nghề”.
Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) cho phép kinh tế tư nhân “phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”.
Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996) thừa nhận vai trò kinh tế tư nhân “kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước”.
Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) nhìn nhận cởi mở hơn về kinh tế tư nhân: “khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm”.
Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) xác định kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng và yêu cầu: xoá bỏ mọi rào cản, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) xác định rõ vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân và yêu cầu “hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”.
Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016) và Đại hội Đảng lần thứ XIII (năm 2021) khẳng định và nhấn mạnh “hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển về kinh tế tư nhân, nổi bật là Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 (khoá XII) về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới”.
Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở cụ thể hoá các chủ trương, đường lối, quan điểm, định hướng của Đảng, tạo khung pháp lý thống nhất, thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, bảo đảm quyền tự do kinh doanh bình đẳng. Từ năm 2017 đến nay, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành gần 60 luật, hơn 40 nghị quyết, pháp lệnh, 17 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; Chính phủ ban hành khoảng 1.000 nghị định có liên quan đến kinh tế tư nhân. Giai đoạn 2021 đến nay, khu vực kinh tế tư nhân gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tăng trưởng kinh tế toàn cầu phục hồi chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro, Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh và người lao động . Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp rất kịp thời và tương đối toàn diện với các chính sách về giảm, giãn, hoãn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, khoanh nợ, hoãn nợ… Đồng thời, Chính phủ đã ban hành nhiều đề án, chương trình, kế hoạch liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân trên các lĩnh vực (tiêu biểu như Đề án phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số; Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững; Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ…).
Đánh giá khái quát về kết quả và đóng góp của kinh tế tư nhân trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển, Thủ tướng nêu rõ: kinh tế tư nhân liên tục phát triển, khẳng định vị thế là một động lực quan trọng của nền kinh tế; là kênh huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển; góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách Nhà nước; tạo việc làm, sinh kế, thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội; thúc đẩy hội nhập quốc tế; đóng góp phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước.
Một số kết quả nổi bật của kinh tế tư nhân cụ thể, Thủ tướng cho biết số lượng doanh nghiệp thành lập tăng mạnh, từ khoảng 5.000 doanh nghiệp năm 1990 lên 50.000 doanh nghiệp năm 2000, và 200.000 năm 2005 (gấp 40 lần sau 15 năm); đến nay có gần 1 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, là khu vực có đóng góp lớn nhất trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng khoảng 50% GDP. Từ năm 2016 đến nay, tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân đạt khoảng 6-8%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp rất quan trọng tạo việc làm, thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt ở vùng nông thôn, địa bàn khó khăn. Giai đoạn 2017-2024, khu vực kinh tế tư nhân sử dụng bình quân hơn 43,5 triệu lao động, chiếm hơn 82% tổng số lao động có việc làm trong nền kinh tế. Tỷ trọng vốn đầu tư của kinh tế tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, từ 44% năm 2010 lên 56% năm 2024; đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước, khoảng 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Kinh tế tư nhân là khu vực năng động trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và dịch vụ. Các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tăng nhanh, từ 1.500 startup năm 2015 lên khoảng 4.000 startup vào năm 2024. Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đang hình thành, phát triển, vươn tầm khu vực, quốc tế. Đội ngũ doanh nhân ngày càng phát triển lớn mạnh, tinh thần kinh doanh, tinh thần đổi mới và khát vọng vươn lên ngày càng mạnh mẽ; đặc biệt, ngay cả trong những thời kỳ khó khăn, thiên tai, dịch bệnh, các doanh nghiệp, doanh nhân vẫn nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, thể hiện trách nhiệm xã hội với cộng đồng.
Bên cạnh đó, mặc dù có nhiều đóng góp quan trọng, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân đề ra tại Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017 (đạt 1,5 triệu doanh nghiệp và đóng góp 55% GDP vào năm 2025) vẫn chưa đạt được. Gần 98% doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, siêu nhỏ (gần 70% quy mô siêu nhỏ), sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế; năng suất lao động thấp hơn khu vực doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước; tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI thấp (chỉ khoảng 21%). Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động bình quân đạt khoảng 10 doanh nghiệp/1.000 dân vào năm 2024, thấp hơn so với các nước trong khu vực.
Tốc độ doanh nghiệp rút khỏi thị trường tăng, phản ánh tình trạng khó khăn do biến động bất lợi của tình hình quốc tế, trong nước. Việc tiếp cận các nguồn lực còn khó khăn, nhất là về tài chính, tín dụng, đất đai, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm gần 98% số lượng doanh nghiệp nhưng tiếp cận chưa đến 20% tổng dư nợ tín dụng). Các doanh nghiệp tư nhân chiếm chưa đến 10% tổng vốn hóa thị trường chứng khoán. Kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI còn hạn chế (chỉ có 18% doanh nghiệp có kết nối chuỗi giá trị toàn cầu, trong đó doanh nghiệp lớn chiếm đến 62%, còn lại là doanh nghiệp nhỏ và vừa). Một bộ phận doanh nghiệp tư nhân chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thông tin chưa minh bạch, thiếu tầm nhìn chiến lược; đạo đức, văn hóa kinh doanh còn hạn chế (cạnh tranh thiếu lành mạnh, sản xuất hàng nhái, hàng kém chất lượng, vi phạm hợp đồng…). Một số doanh nghiệp tư nhân còn tham gia vào buôn lậu, trốn thuế, thao túng thị trường, găm hàng, đội giá…
Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, Thủ tướng chỉ rõ những bất cập mang tính căn cơ, như: nhận thức về kinh tế tư nhân còn hạn chế, quan điểm chưa cởi mở; công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn bất cập; tổ chức thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách về kinh tế tư nhân chưa thực sự kịp thời, hiệu quả; một bộ phận doanh nghiệp tư nhân chưa thực sự chủ động, linh hoạt, tự lực, tự cường, nỗ lực vươn lên.
Phân tích nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, Thủ tướng cho rằng, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, quy mô kinh tế còn khiêm tốn, sức chống chịu còn hạn chế. Thể chế, pháp luật vẫn là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Thủ tục hành chính còn vướng mắc; chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2023 xếp hạng 70/190 quốc gia, thấp hơn một số nước trong khu vực. Một số điều kiện kinh doanh không cần thiết, thiếu tính khả thi chưa được bãi bỏ, sửa đổi kịp thời; thủ tục đầu tư, kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn phức tạp, thiếu minh bạch; một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân khó thực hiện (như hỗ trợ đầu tư nghiên cứu phát triển, ưu đãi thuế, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp…). Năng lực nội tại của kinh tế tư nhân còn hạn chế, nhất là về vốn, quản trị, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, áp dụng các mô hình kinh doanh mới như kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn. Tư duy, nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức còn mang nặng tính “xin – cho”; còn tình trạng thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu, tiếp tay cho tiêu cực, lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí.
Thủ tướng cho rằng, phát triển kinh tế tư nhân còn nhiều khó khăn do nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chính, từ nhận thức tới định hướng, tổ chức thực hiện, quản lý nhà nước, vấn đề tổng kết, tôn vinh kinh tế tư nhân… tuy đã có rất nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, sự phát triển của khu vực KTTT và chưa tương xứng với mong muốn của chúng ta.
Xóa bỏ rào cản, tư duy “không quản được thì cấm”
Từ thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân nước ta những năm qua và kinh nghiệm quốc tế, có thể đúc kết một số bài học kinh nghiệm.
Thứ nhất, đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất và là trụ cột chính của nền kinh tế quốc gia, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và hành động mạnh mẽ hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển.
Thứ hai, nâng cao vai trò kiến tạo, dẫn dắt của Nhà nước, tăng cường năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, xây dựng thể chế và tổ chức thực hiện, có cơ chế, chính sách đột phá, xoá bỏ mọi rào cản, tư duy “không quản được thì cấm” để phát triển kinh tế tư nhân, đẩy mạnh hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân.
Thứ ba, bảo đảm kinh tế tư nhân được đối xử công bằng, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác; có cơ chế, chính sách, giải pháp vượt trội, đột phá để khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là cho nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hoá, giảm chi phí thủ tục hành chính.
Thứ tư, ưu tiên, hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, tiên phong dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu; thúc đẩy mạnh mẽ liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân vươn ra thị trường quốc tế, xây dựng thương hiệu quốc tế.
Thứ năm, tập trung đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có chính sách đãi ngộ vượt trội để thu hút nhân tài, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao, ngành nghề mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân.
Trong bối cảnh mới nhiều khó khăn, thách thức, những cũng có cơ hội mới, thời cơ mới cho phát triển đất nước, để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội đã đề ra, nhất là hai mục tiêu chiến lược 100 năm, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy, nhận thức, tầm nhìn; quyết liệt hành động mạnh mẽ hơn, khơi thông mọi động lực cho phát triển đất nước; đặc biệt là sự cấp thiết phải xoá bỏ mọi định kiến, phát huy vai trò, tạo sự đột phá phát triển kinh tế tư nhân để thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước trong tình hình mới.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã khẩn trương thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án phát triển kinh tế tư nhân do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban; thường xuyên xin ý kiến và nhận sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là ý kiến chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư; huy động sự tham gia ý kiến tích cực của các cấp, các ngành, các địa phương, các chuyên gia, hiệp hội, doanh nghiệp. Trong một thời gian ngắn (2 tháng) đã trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW; trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; ban hành Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 về Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 về Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội. Cùng với đó, chúng ta cũng đang tiến hành cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, tạo không gian phát triển mới, cắt giảm đầu mối, khâu trung gian, tăng cường cho cơ sở, cắt giảm thủ tục, chuyển mạnh từ trạng thái thụ động sang chủ động phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách nhất
Nghị quyết 68-NQ/TW đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo mang tính đột phá về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó nổi bật là:
(1) Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Thực tiễn đổi mới ở nước ta và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đây là lực lượng tiên phong thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, hội nhập quốc tế.
(2) Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Đây là yêu cầu tất yếu khách quan, trong đó kinh tế tư nhân là phương thức quan trọng nhất để giải phóng sức sản xuất, kích hoạt, huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là trong nhân dân.
(3) Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân; coi doanh nhân là những chiến sỹ trên mặt trận kinh tế. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thực sự bảo đảm kinh tế tư nhân bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực.
(4) Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, làm giàu hợp pháp, đóng góp cho đất nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo nền tảng vững chắc thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và phát huy vai trò của kinh tế tư nhân tham gia các nhiệm vụ quan trọng, chiến lược của quốc gia, vươn tầm khu vực, thế giới.
(5) Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể; tôn vinh, cổ vũ, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh. Qua đó, góp phần thúc đẩy, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, khát vọng cống hiến của đội ngũ doanh nhân cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Để đạt được các mục tiêu đề ra tới năm 2030, 2045, Nghị quyết đề ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thể hiện tinh thần đổi mới, đột phá, cải cách mạnh mẽ, bảo đảm bám sát 3 đột phá chiến lược (về thể chế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng) và trong tổng thể 4 Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị.
Một là, đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển kinh tế tư nhân. Đây là yêu cầu trước hết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế tư nhân; yêu cầu các cơ quan truyền thông, báo chí chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền (cổ vũ, lan toả những mô hình tốt, cách làm hay, khích lệ tinh thần kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nhân; nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai sự thật, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân).
Hai là, đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân và bảo đảm thực thi hợp đồng của kinh tế tư nhân. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp này nhằm giải quyết triệt để, hiệu quả vấn đề thể chế, không để thể chế tiếp tục là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, mà là động lực thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế tư nhân phát triển. Tinh thần đặt ra là phải đổi mới tư duy xây dựng và thực thi pháp luật; xoá bỏ các rào cản hành chính, cơ chế “xin – cho”, tư duy “không quản được thì cấm”; khắc phục triệt để tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu nhất quá giữa giữa các bộ, ngành, địa phương; chủ động kiến tạo một môi trường thể chế thuận lợi nhất; tập trung giải quyết về bản chất những vấn đề cốt lõi nhất về bảo đảm quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng, thực thi hợp đồng; phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự để củng cố niềm tin của doanh nghiệp, doanh nhân, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
Về cải cách, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xoá bỏ các rào cản tiếp cận thị trường; tạo mọi thuận lợi trong giải quyết thủ tục hành chính. Chuyển từ nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Không phân biệt đối xử giữa kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực; hoàn thiện thể chế, có cơ chế, chính sách đặc biệt thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
Về phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự, Nghị quyết nêu rõ: bảo đảm nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại.
Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo. Không hồi tố các quy định pháp luật để xử lý bất lợi cho doanh nghiệp. Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong quá trình điều tra, xét xử các vụ án. Bảo đảm giá trị niêm phong, kê biên, tạm giữ, phong toả tương ứng với dự kiến hậu quả thiệt hại trong vụ án. Phân biệt rõ tài sản hình thành hợp pháp với tài sản có được từ hành vi vi phạm pháp luật, tài sản khác liên quan đến vụ án; giảm thiểu tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ba là, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao. Đây là điểm mới của Nghị quyết, trong đó đưa ra các giải pháp cụ thể đối với những vấn đề đang vướng mắc. Theo đó, tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất – kinh doanh cho kinh tế tư nhân; đẩy mạnh và đa dạng hoá nguồn vốn cho kinh tế tư nhân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế tư nhân.
Bốn là, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong kinh tế tư nhân, với các cơ chế, chính sách đột phá. Đơn cử, tính vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển bằng 200% chi phí thực tế; trích tối đa 20% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; được sử dụng quỹ để tự triển khai hoặc đặt hàng nghiên cứu phát triển bên ngoài theo cơ chế khoán sản phẩm.
Năm là, tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.
Sáu là, hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp vừa và lớn, tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu. Đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả các hình thức hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân thông qua các mô hình “lãnh đạo công – quản trị tư”, “đầu tư công – quản lý tư”, “đầu tư tư – sử dụng công”. Xây dựng, triển khai chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh; Chương trình vươn ra thị trường quốc tế (Go Global)…
Bảy là, hỗ trợ thực chất, hiệu quả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh. Trong đó, thực hiện hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, nhất là cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh, ưu tiên chủ doanh nghiệp, hộ kinh doanh là thanh niên, phụ nữ, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và các mô hình kinh doanh bao trùm, tạo tác động xã hội.
Tám là, đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia quản trị đất nước. Theo đó, tôn vinh, biểu dương, khen thưởng các doanh nhân, doanh nghiệp điển hình, tiên tiến, kinh doanh hiệu quả, bền vững, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động vì cộng đồng. Thiết lập mối quan hệ giữa các cấp uỷ đảng, chính quyền với doanh nghiệp tư nhân chặt chẽ, thực chất, chia sẻ, cởi mở, chân thành; phát huy vai trò góp ý, phản biện chính sách của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp. Xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phát triển Đảng trong khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nhân.
Về tổ chức thực hiện, Bộ Chính trị giao nhiệm vụ cụ thể cho Đảng uỷ Quốc hội, Đảng uỷ Chính phủ, các Ban Đảng ở Trung ương, Đảng uỷ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Toà án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương trong triển khai thực hiện Nghị quyết 68-NQ/TW.
Kế hoạch hành động của Chính phủ
Kế hoạch được ban hành nhằm cụ thể hoá, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị. Phương châm đặt ra là phải tập trung thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết định, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm. Phân công nhiệm vụ phải bảo đảm cụ thể, rõ ràng cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện với tinh thần “6 rõ: rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả”.
Bám sát 5 quan điểm chỉ đạo, các mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Nghị quyết số 68-NQ/TW, Chương trình hành động của Chính phủ đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ với 117 nhiệm vụ cụ thể, giao cho từng bộ, ngành, các địa phương chủ trì hoặc phối hợp triển khai thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, với thời hạn, kết quả cụ thể.
Thủ tướng cũng cho biết, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân với một số nội dung chủ yếu: về cải thiện môi trường kinh doanh; về hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất – kinh doanh; về hỗ trợ tài chính, tín dụng và mua sắm công; về hỗ trợ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nhân lực; về hỗ trợ hình thành doanh nghiệp vừa và lớn, doanh nghiệp tiên phong; về điều khoản thi hành.
Ngay trong ngày 17/5/2025, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 139/NQ-CP về Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể với thời hạn cụ thể cho các bộ, cơ quan, địa phương để tập trung triển khai thực hiện, phát huy hiệu quả ngay từ thời điểm ban hành.
Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tại Hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn báo cáo chuyên đề trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW. Chủ tịch Quốc hội khẳng định, việc ban hành Nghị quyết 66 là đòi hỏi khách quan của tiến trình đổi mới nhằm tạo đột phá nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của đất nước.
Một là, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với những đòi hỏi cao hơn về thể chế pháp luật để thực hiện thành công mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 theo Nghị quyết Đại hội lần thứ 13 của Đảng. Điều này đòi hỏi một hệ thống pháp luật hiện đại, đồng bộ và khả thi.
Hai là, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang diễn ra mạnh mẽ, đặt ra những vấn đề mới, phức tạp về pháp lý cần được nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời.
Ba là, hội nhập quốc tế sâu rộng, nhất là việc Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đòi hỏi hệ thống pháp luật trong nước phải tương thích với các cam kết quốc tế và thông lệ quốc tế.
Bốn là, công tác xây dựng và thi hành pháp luật những năm qua còn không ít hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển.
Chủ tịch Quốc hội khẳng định, công tác xây dựng và thi hành pháp luật đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tạo nền tảng pháp lý cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Trong đó, tư duy, nhận thức lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không ngừng được hoàn thiện. Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật đã được nâng lên. Quy trình xây dựng pháp luật ngày càng chặt chẽ, khoa học; công tác thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được chú trọng.
Công tác tổ chức thi hành pháp luật đã có những chuyển biến tích cực. Sau mỗi Kỳ họp Quốc hội, Chính phủ chủ trì, phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Hội nghị triển khai các luật, nghị quyết Quốc hội thông qua tại kỳ họp để nhanh chóng đưa luật, nghị quyết vào cuộc sống. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc thi hành pháp luật; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được chú trọng; việc theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được tiến hành thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm; công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật được tăng cường.
Theo Chủ tịch Quốc hội, công tác xây dựng và thi hành pháp luật đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Năm 2024, GDP của Việt Nam đã tăng 7,09%, đạt mức cao nhất trong khu vực, 15/15 chỉ tiêu kinh tế đạt và vượt – một phần nhờ vào việc ban hành kịp thời nhiều chính sách, pháp luật tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp và người dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Chủ tịch Quốc hội cũng chỉ rõ, công tác xây dựng và thi hành pháp luật vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế. Đó là: một số chủ trương, định hướng của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ.
Theo báo cáo của Bộ Tư pháp và các cơ quan, tính đến ngày 31/8/2023, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã ban hành 45 văn bản, còn 83 văn bản chưa ban hành (tỷ lệ nợ đọng là 24.13%). Năm 2024 đã có tiến bộ hơn, nhưng số lượng văn bản nợ vẫn chiếm 17.05%. Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý, chưa chú trọng đúng mức đến thúc đẩy phát triển, tạo động lực đổi mới sáng tạo. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mang nặng tính mệnh lệnh hành chính, quy định chi tiết được làm gì, không được làm gì, thiếu linh hoạt, không theo kịp sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ, thị trường và các mô hình kinh doanh mới. Chất lượng xây dựng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Việc nghiên cứu, đánh giá tác động chính sách, đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật còn mang tính hình thức, chưa thực chất; việc tham vấn ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản quy phạm pháp luật chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, có tới 32% số văn bản quy phạm pháp luật ban hành trong 5 năm gần đây đã phải sửa đổi, bổ sung trong vòng 2 năm sau khi có hiệu lực. Tình trạng quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, không rõ ràng chưa được khắc phục triệt để, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Tính đến tháng 12/2024, vẫn còn 27 văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh chưa được ban hành đúng thời hạn, trong đó có những văn bản chậm ban hành trên 12 tháng. Việc phân cấp, phân quyền trong nhiều lĩnh vực chưa đủ mạnh, triệt để, thiếu rõ ràng về trách nhiệm và thẩm quyền; thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Việc nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh những vấn đề mới còn chậm, chưa tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo.
Nhiều vấn đề mới phát sinh như thương mại điện tử xuyên biên giới, kinh tế chia sẻ, công nghệ tài chính, chuỗi khối, tiền điện tử… chưa được điều chỉnh kịp thời, làm hạn chế khả năng phát triển và cạnh tranh của nền kinh tế trong kỷ nguyên số. Công tác tổ chức thi hành pháp luật vẫn là khâu yếu. Việc theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật có chuyển biến nhưng chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn; thiếu cơ chế phản ứng chính sách kịp thời, có lúc, có nơi chưa nghiêm minh, hiệu quả thấp. Theo kết quả khảo sát của Bộ Tư pháp tại 63 tỉnh, thành phố, có tới 65% người dân và doanh nghiệp được hỏi cho rằng việc thực thi pháp luật chưa nghiêm, làm giảm niềm tin vào pháp luật.
Luật pháp được xác định là lợi thế cạnh tranh của đất nước
Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải quán triệt sâu sắc 5 quan điểm chỉ đạo đã được xác định tại Nghị quyết 66 gồm: (1) Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành pháp luật. (2) Phải xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước. (3) Xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển, tạo dư địa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế “hai con số”; nâng cao đời sống của Nhân dân, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. (4) Cần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng với thi hành pháp luật. (5) Xác định rõ đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển. Nhà nước bảo đảm và ưu tiên nguồn lực và có chế độ, chính sách đặc thù, vượt trội cho công tác nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật và đội ngũ nhân lực trực tiếp, thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ này.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Nghị quyết đặt ra mục tiêu trung hạn và dài hạn cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật, bám sát yêu cầu và mốc thời gian thực hiện 2 mục tiêu chiến lược 100 năm mà Đảng ta đã đề ra. Cụ thể, đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi, cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế – xã hội để Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Đồng thời, để bảo đảm thực hiện có lộ trình, bước đi, có trọng tâm, trọng điểm, khả thi, Nghị quyết xác định rõ mục tiêu cụ thể trước mắt và cho nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XVI).
Nghị quyết xác định 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung thực hiện trong thời gian tới, khẳng định xây dựng và thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần được thực hiện dưới sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng. Trong đó, quan trọng là đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật. Pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương của Đảng; xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước, ưu tiên bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Luật pháp được xác định là lợi thế cạnh tranh của đất nước, do đó Nghị quyết yêu cầu dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” – thay vào đó phải khuyến khích sáng tạo, khơi thông nguồn lực phát triển. Các quy định pháp luật cần ổn định, đơn giản, dễ hiểu, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Công tác xây dựng pháp luật được yêu cầu phải rất chủ động trong nghiên cứu chiến lược và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế nhằm tăng tính dự báo, nâng cao chất lượng chính sách.
Nghị quyết 66 nhấn mạnh phải hoàn thiện quy trình lập pháp minh bạch, chuyên nghiệp và công khai ý kiến đóng góp, không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các luật chủ yếu phục vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết yêu cầu cắt giảm tối đa điều kiện kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ; bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; coi khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận dễ dàng nguồn vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao. Nghị quyết 66 đặt ra yêu cầu công tác thi hành pháp luật phải đột phá. Pháp luật được thực thi công bằng, nghiêm minh, nhất quán và kịp thời, gắn chặt với quá trình xây dựng pháp luật. Nghị quyết yêu cầu phát huy tinh thần phục vụ Nhân dân của công chức, bảo đảm quan điểm “người dân và doanh nghiệp được làm những gì luật không cấm”.
Thi hành pháp luật ưu tiên thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng thời chú trọng các lĩnh vực thiết yếu, như: an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, an ninh mạng. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và tổ chức xã hội được huy động tích cực tham gia giám sát thi hành pháp luật và phổ biến giáo dục pháp luật. Nghị quyết yêu cầu xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, đa dạng hóa truyền thông chính sách (kể cả ứng dụng công nghệ số). Đồng thời, kiên quyết không “hình sự hóa” các quan hệ kinh tế, dân sự, không dùng biện pháp hành chính để giải quyết tranh chấp kinh tế, giữ vững tính công bằng và linh hoạt của luật pháp.

Về cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết, ngày 17/5/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 197 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, kịp thời thể chế hóa ngay các quyết sách của Nghị quyết 66, tháo gỡ ngay những vướng mắc, bất cập về cơ chế tài chính, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, chuyển đổi số trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật.
Nghị quyết 197 đã quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, chưa có tiền lệ, không chỉ là khoản chi 0,5% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm cho công tác xây dựng pháp luật, thành lập Quỹ Hỗ trợ xây dựng chính sách, pháp luật mà cả cơ chế khoán chi, mức chi, chế độ, chính sách đặc biệt khuyến khích đối với đội ngũ cán bộ, công chức tại một số cơ quan, đơn vị ở trung ương và địa phương trực tiếp, thường xuyên làm công tác tham mưu nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật và một số hoạt động tổ chức thi hành pháp luật hỗ trợ trực tiếp cho xây dựng pháp luật. Đồng thời, bảo đảm các cơ chế, chính sách đặc biệt được áp dụng đúng mục đích, đúng người, đúng việc, có trọng tâm, trọng điểm, xác định đúng, trúng và quy định bao quát đầy đủ các đối tượng trực tiếp, thường xuyên làm công tác tham mưu nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật.
Nghị quyết 197 vừa có quy định chung, khái quát, mang tính nguyên tắc, vừa có một số quy định cụ thể để có thể thi hành ngay sau khi Nghị quyết được thông qua. Các nội dung ngân sách bảo đảm chi và biện pháp thực hiện nhằm triển khai thực hiện thuận lợi, đúng quy định, các cơ chế, chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật. Trong quá trình thực hiện, trường hợp cần thiết thì có thể điều chỉnh, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Chính phủ cũng sẽ có quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể; có cơ chế kiểm soát bảo đảm các yêu cầu về hiệu quả, công khai, minh bạch, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và nhất là phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ.
Đặc biệt, về chính sách đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công tác xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật đã yêu cầu: tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về pháp luật là nền tảng hạ tầng số dùng chung, thống nhất trong quản lý và lưu trữ toàn diện các nguồn dữ liệu; tích hợp, liên thông các hệ thống thông tin để có thể cập nhật, khai thác, chia sẻ phục vụ đồng thời nhiều mục đích cho công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ số, trong đó bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI), trợ lý ảo đáp ứng yêu cầu chuyên môn hóa phục vụ các khâu của quy trình xây dựng pháp luật.
Ngày 17/5/2025, Đảng ủy Chính phủ cũng đã có Nghị quyết số 140 ban hành Chương trình hành động, xác định toàn diện các nội dung, nhiệm vụ thực hiện. Trong đó có một số nhiệm vụ trọng tâm, như: thể chế hóa chủ trương của Đảng về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan để tiếp tục thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương cụ thể hóa, hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Thực hiện đổi mới tư duy lập pháp, trong xây dựng, chỉnh lý, hoàn thiện các dự thảo luật trình Quốc hội biểu quyết thông qua, Đảng ủy Quốc hội phối hợp chặt chẽ với Đảng ủy Chính phủ và các cơ quan có liên quan chú trọng bảo đảm nguyên tắc: một số bộ luật, luật quy định về quyền con người, quyền công dân, tố tụng tư pháp thì cần cụ thể, về cơ bản các luật khác, nhất là luật điều chỉnh các nội dung về kiến tạo phát triển chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội, còn những vấn đề thực tiễn thường xuyên biến động thì giao Chính phủ, bộ, ngành, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn.
Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, trong năm 2025, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ và các cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện tổng kết việc thực hiện Định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XV), đánh giá kỹ kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế; đồng thời, bám sát văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, các nhiệm vụ trọng tâm, định hướng phát triển đất nước để xây dựng định hướng chương trình lập pháp cho nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XVI), làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình lập pháp hằng năm để các bộ, ngành, cơ quan trung ương và chính quyền địa phương chủ động triển khai các nhiệm vụ lập pháp.
Dứt khoát không để tình trạng “nói nhiều làm ít”, “nói mà không làm”
Chủ tịch Quốc hội đề nghị, theo chức năng, nhiệm vụ cần triển khai thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, như: khẩn trương xây dựng kế hoạch và lãnh đạo tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 66. Theo đó, căn cứ vào các nội dung của Nghị quyết, các nội dung có liên quan trong Chương trình hành động của Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ để sớm ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết; trong đó, lưu ý phải xác định đúng, đủ nhiệm vụ của từng cơ quan gắn với thời hạn thực hiện cụ thể, kết quả đầu ra rõ ràng, đồng thời, có cơ chế theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện bảo đảm để những chủ trương, quyết sách trong Nghị quyết sớm đi vào cuộc sống mang lại những kết quả cụ thể có thể kiểm đếm và người dân cảm nhận được sự thay đổi theo chiều hướng tích cực. Dứt khoát không để tình trạng “nói nhiều làm ít”, “nói mà không làm”.
Về bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật, cấp ủy các cơ quan cần lưu ý bảo đảm triển khai một số yêu cầu mới về trách nhiệm người đứng đầu Bộ, cơ quan ngang Bộ, gắn với công tác đánh giá, khen thưởng, sử dụng cán bộ và chế tài, biện pháp xử lý đối với người không thực hiện đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng và thi hành pháp luật.
Tiếp tục thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật theo đúng yêu cầu của Nghị quyết số 66 và Quy định số 178 ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị.
Để đạt được các mục tiêu đột phá mà Nghị quyết 66 đề ra đòi hỏi mỗi cơ quan, tổ chức, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, đổi mới phương thức lãnh đạo và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp một cách chủ động, sáng tạo, thực chất. Mỗi cơ quan, mỗi cá nhân phải biến quyết tâm thành hành động cụ thể: đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, song song với việc thi hành nghiêm minh pháp luật và khuyến khích sáng tạo.

Bộ tứ trụ cột” giúp Việt Nam cất cánh
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đến thời điểm hiện nay có thể gọi 4 nghị quyết (Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới) là “Bộ tứ trụ cột” để giúp chúng ta cất cánh.
Mặc dù mỗi nghị quyết tập trung vào một lĩnh vực trọng yếu, nhưng liên kết chặt chẽ, bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện. Cả bốn nghị quyết đều thống nhất mục tiêu: xây dựng nền tảng vững chắc để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Nghị quyết 66 yêu cầu hoàn thiện thể chế pháp luật minh bạch, hiện đại, bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Nghị quyết 57 xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là trụ cột tăng trưởng mới. Nghị quyết 59 mở rộng không gian phát triển thông qua hội nhập quốc tế chủ động, tích cực. Nghị quyết 68 thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực trung tâm cho nền kinh tế.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, điểm đột phá chung của cả bốn nghị quyết là tư duy phát triển mới: từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ” sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ “cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc”. Đây là bước chuyển tư duy căn bản, kế thừa thành tựu đổi mới 40 năm qua và phù hợp với xu thế toàn cầu trong kỷ nguyên số. Tất cả các nghị quyết đều nhấn mạnh vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ, sáng tạo của cả hệ thống chính trị, cùng sự tham gia thực chất của doanh nghiệp, người dân và giới trí thức.
Các trục triển khai, như: thi hành pháp luật, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, phát triển tư nhân và hội nhập quốc tế đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, kiểm tra, giám sát thường xuyên và đánh giá hiệu quả. Tổng Bí thư chỉ rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới (2025-2030) đó là:hoàn thiện thể chế pháp luật hiện đại, đồng bộ, thúc đẩy phát triển. Trong 5 năm tới, triển khai toàn diện Nghị quyết 66, cải cách mạnh mẽ quy trình xây dựng, thi hành và đánh giá pháp luật. Mục tiêu: xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập sâu rộng. Kiên quyết xóa bỏ “luật khung, luật ống”, khắc phục pháp luật chồng chéo, đồng thời hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền đổi mới sáng tạo, tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho đầu tư và phát triển.
Đột phá trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Giai đoạn 2025-2030 phải tạo đột phá mạnh mẽ thông qua triển khai quyết liệt các chương trình quốc gia về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, lan tỏa tới doanh nghiệp và địa phương. Hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư R&D, thương mại hóa công nghệ; xây dựng hạ tầng dữ liệu và nền tảng số cho chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Đây là nền tảng kỹ thuật quyết định bứt phá năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia. Tăng tốc hội nhập quốc tế toàn diện, chủ động, hiệu quả: chủ động đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, tận dụng cơ hội từ chuỗi cung ứng toàn cầu và dòng vốn đầu tư quốc tế. Chuyển hóa cam kết hội nhập thành tăng trưởng thực tế, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư chất lượng cao. Đồng thời, tham gia xây dựng và định hình luật chơi quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, an ninh mạng, qua đó khẳng định vị thế và bảo vệ lợi ích quốc gia.
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực chất, trở thành “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế quốc gia: tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về đất đai, tín dụng, công nghệ, thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp linh hoạt, năng động. Xây dựng chiến lược phát triển các tập đoàn tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh khu vực, quốc tế, dẫn dắt chuỗi giá trị toàn cầu. Trọng tâm: bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh minh bạch, công khai, tạo động lực thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển nhanh, bền vững.
Tạo không gian phát triển mới cho đất nước
Tổng Bí thư nhấn mạnh, năm 2025 là năm bản lề mở ra kỷ nguyên mới, trong khi mục tiêu trở thành quốc gia phát triển chỉ còn hai thập niên phía trước. Nếu không bắt kịp nhịp độ cải cách, không tạo đột phá ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ lỡ mất cơ hội vàng và tụt lại trong cuộc đua toàn cầu. Vì vậy, về những nhiệm vụ cấp bách trong năm 2025, Tổng Bí thư đề nghị cần triển khai các nhiệm vụ một cách nhanh chóng, bài bản, thực chất, lấy hiệu quả thực tế làm tiêu chí đánh giá; toàn hệ thống chính trị khẩn trương thực hiện 8 nhiệm vụ trọng tâm.
Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện và ban hành các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia thực hiện 4 nghị quyết, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình và phân công cụ thể. Đồng thời, lập bộ chỉ số theo dõi, đánh giá định kỳ.
Thứ hai, khẩn trương rà soát toàn diện hệ thống pháp luật, triển khai sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy định bất cập theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW…
Thứ ba, khởi động ngay các chương trình trọng điểm về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phê duyệt, triển khai các chương trình quốc gia; hình thành thêm các trung tâm đổi mới sáng tạo mới; xây dựng khung pháp lý cho mô hình sandbox.
Thứ tư, tập trung đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, chủ động chuẩn bị tham gia các hiệp định mới tận dụng cam kết hội nhập để chuyển hóa thành tăng trưởng thực tế…
Thứ năm, thực hiện đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh: cắt giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, số hóa dịch vụ công, hỗ trợ vốn, công nghệ, chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng đề án phát triển tập đoàn tư nhân lớn.
Thứ sáu, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện các nghị quyết; thành lập các Ban chỉ đạo chuyên trách cấp trung ương và cấp tỉnh; bảo đảm cơ chế chỉ đạo thống nhất, kiểm tra, giám sát thường xuyên.
Thứ bảy, ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để triển khai nghị quyết: đào tạo chuyên sâu về pháp luật hiện đại, khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế và quản trị doanh nghiệp; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ có tư duy đổi mới, năng lực số và khả năng thích ứng toàn cầu.
Thứ tám, đẩy mạnh truyền thông, tạo đồng thuận xã hội: xây dựng các chương trình truyền thông quốc gia về từng nghị quyết; tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ, doanh nghiệp, người dân và giới trí thức, huy động trí tuệ xã hội cho quá trình triển khai.
Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hùng cường, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tiếp tục đồng lòng, chung sức, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam phải trở thành chiến sĩ tiên phong trên mặt trận phát triển đất nước. Tổng Bí thư lưu ý, Lãnh đạo các cấp, từ trung ương đến địa phương phải gương mẫu, tiên phong trong đổi mới tư duy và hành động; dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích quốc gia, thậm chí dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung.
Các chương trình hành động phải được triển khai quyết liệt, bài bản, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo năng lực và kết quả công tác. Người dân và doanh nghiệp phải được xác định là trung tâm và chủ thể sáng tạo trong phát triển; cần bồi đắp mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp quốc gia, khơi dậy nguồn lực đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, phát triển kinh tế số, kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường hiện đại hóa, hội nhập.

Hiện thực hóa Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới
Nghiêm túc tiếp thu ý kiến chỉ đạo sâu sắc, toàn diện của Tổng Bí thư Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa nhấn mạnh, phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ về Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW, mà còn về Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”, là “Bộ tứ trụ cột” để đất nước cất cánh.
Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương trân trọng cảm ơn các lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tâm huyết, dành thời gian chuẩn bị và trực tiếp truyền đạt các chuyên đề, giúp các đại biểu, cán bộ và Nhân dân nắm bắt được một cách hệ thống, toàn diện nội dung các nghị quyết góp phần quan trọng đưa Nghị quyết nhanh chóng vào cuộc sống. Hướng dẫn việc quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66- NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương đề nghị cấp ủy, tổ chức Đảng tiếp tục tổ chức linh hoạt và phong phú các hình thức, loại hình truyền thông, trong đó phát huy vai trò nòng cốt của các cơ quan báo chí, thông tin cơ sở, phát huy tối đa sức mạnh của nền tảng số, mạng xã hội và công cụ truyền thông mới, để quán triệt, tuyên truyền kết quả Hội nghị. Bên cạnh đó, tạo bước chuyển biến nhanh chóng, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết mang tính hành động của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị với lộ trình, tiến độ, nội dung cụ thể đã xác định; đề cao vai trò, trách nhiệm, quyết tâm chính trị mạnh mẽ, hành động quyết liệt của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, trước hết là người đứng đầu, trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết.
Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương đề nghị bám sát quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết để lan tỏa mạnh mẽ cách làm mới, hiệu quả, sáng tạo của các tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị và cá nhân; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn triển khai thực hiện hiệu quả; kịp thời đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, góp phần đưa Nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống với những kết quả rõ ràng, thực chất và hiệu quả.
Với quyết tâm chính trị cao, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự đồng tâm, đồng lòng, đồng thuận và nỗ lực của toàn dân, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tin tưởng, các nghị quyết sẽ nhanh chóng được hiện thực hóa góp phần đưa đất nước ta phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới.
Thúy Vân