NCS. Nguyễn Trọng Nghĩa
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Thanh tra doanh nghiệp là một công cụ quan trọng để bảo đảm doanh nghiệp hoạt động đúng theo pháp luật, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Thực trạng thanh tra doanh nghiệp tại Việt Nam cho thấy có một số bước tiến đáng kể, nhưng cũng còn tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục. Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, cần cải cách trong phương pháp làm việc, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, ứng dụng công nghệ thông tin và tạo môi trường làm việc minh bạch, công bằng cho doanh nghiệp. Bằng cách này, công tác thanh tra sẽ góp phần hỗ trợ sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong cộng đồng xã hội.
Từ khóa: Thanh tra doanh nghiệp, công tác thanh tra, thanh kiểm tra doanh nghiệp.
1. Cơ sở lý luận
Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoạt động thanh tra bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thanh tra chuyên ngành là thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý theo ngành, lĩnh vực.
Mục đích hoạt động thanh tra: nhằm phát hiện hạn chế, bất cập trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền có giải pháp, biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Nguyên tắc hoạt động thanh tra: tuân theo pháp luật, dân chủ, công khai, khách quan, kịp thời, chính xác; không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; không trùng lặp về phạm vi, thời gian giữa các cơ quan thanh tra, giữa cơ quan thanh tra với cơ quan kiểm toán nhà nước; không trùng lặp trong việc thực hiện quyền khi tiến hành thanh tra.
2. Các quy định pháp luật về thanh tra doanh nghiệp
Theo pháp luật hiện hành, thanh tra, kiểm tra là hoạt động bình thường của cơ quan quản lý Nhà nước để bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, cũng như bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và trật tự xã hội.
Ngày 17/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 20/2017/CT-TTg về chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, đây lần đầu tiên, các nguyên tắc về hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp được nêu rõ, như: không quá 1 lần/năm, các cơ quan phải phối hợp xây dựng kế hoạch thanh tra, kế thừa kết quả thanh tra, chỉ thanh tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm… Ngày 21/4/2020 Thủ tướng Chính phủ cũng đã có Chỉ thị số 11/CT-TTg về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp ứng phó dịch Covid-19, trong đó có yêu cầu Bộ Tài chính chỉ đạo cơ quan thuế, cơ quan hải quan xem xét không tổ chức kiểm tra định kỳ trong năm 2020 đối với các doanh nghiệp; cơ quan thanh tra không thanh tra ngoài kế hoạch. Từ đó, công tác thanh, kiểm tra doanh nghiệp thực sự có nhiều thay đổi.
Theo Báo cáo PCI 2021 của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp (VCCI), năm 2020, các doanh nghiệp cho biết, số lần tiếp đón đoàn thanh, kiểm tra trong một số lĩnh vực, như: Hải quan, Công an kinh tế, Môi trường giảm khoảng 50% so với năm 2016. Tỷ lệ doanh nghiệp bị thanh, kiểm tra trùng lặp giảm đáng kể, từ 25,9% (năm 2015), xuống còn 8,3% vào năm 2020. Tỷ lệ doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra từ 5 cuộc/năm trở lên giảm từ 11,9% (năm 2016), xuống 3% vào năm 2020. Tỷ lệ doanh nghiệp cho biết cán bộ lợi dụng công tác thanh kiểm tra để nhũng nhiễu doanh nghiệp đã giảm từ con số 18,9% (năm 2017), xuống còn 14,3% vào năm 2020… Mặc dù vậy, hiện tượng nhũng nhiễu, làm khó doanh nghiệp của công chức thanh tra trong quá trình thực thi nhiệm vụ vẫn tồn tại. Kết quả khảo sát của Dự án PCI 2021 cũng ghi nhận trên 67% doanh nghiệp cho biết, phải trả chi phí không chính thức khi làm việc với các đoàn thanh tra xây dựng, môi trường, thuế, phòng cháy, chữa cháy…
Ngày 14/10/2024 tại Quyết định số 1182/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã bãi bỏ Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 07/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ giao Thanh tra Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ có trách nhiệm hướng dẫn các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra tiến hành việc thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp theo đúng quy định của Luật Thanh tra, Nghị định số 43/2023/NĐ-CP ngày 30/6/2023 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Thanh tra; Nghị định số 03/2024/NĐ-CP ngày 11/01/2024 của Chính phủ về cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Thanh tra Chính phủ hướng dẫn các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra xây dựng và thực hiện kế hoạch thanh tra hằng năm theo đúng quy định pháp luật; kịp thời xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra.
Ngày 17/5/2025, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết số 198/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân. Trong đó, quy định cụ thể nguyên tắc hoạt động thanh tra, kiểm tra, cấp phép, chứng nhận, cạnh tranh và tiếp cận nguồn lực đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, như sau:
(1) Số lần thanh tra đối với mỗi doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh (nếu có) không được quá 01 lần trong năm, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng.
(2) Số lần kiểm tra tại doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh (nếu có), bao gồm cả kiểm tra liên ngành, không được quá 01 lần trong năm, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng.
(3) Đối với cùng một nội dung quản lý nhà nước, trường hợp đã tiến hành hoạt động thanh tra thì không thực hiện hoạt động kiểm tra hoặc đã tiến hành hoạt động kiểm tra thì không thực hiện hoạt động thanh tra doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong cùng một năm, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng.
(4) Kế hoạch, kết luận thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh phải được công khai theo quy định của pháp luật.
(5) Xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng, lợi dụng thanh tra, kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
(6) Ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh. Ưu tiên thanh tra, kiểm tra từ xa dựa trên các dữ liệu điện tử; giảm thanh tra, kiểm tra trực tiếp.
(7) Miễn kiểm tra thực tế tại doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tuân thủ tốt quy định của pháp luật.
(8) Hoàn thiện hệ thống pháp luật, xóa bỏ các rào cản tiếp cận thị trường, bảo đảm môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, rõ ràng, nhất quán, ổn định lâu dài, dễ tuân thủ, chi phí thấp.
(9) Thực hiện chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát. Chuyển việc quản lý điều kiện kinh doanh từ cấp phép, chứng nhận sang thực hiện công bố điều kiện kinh doanh và hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế.
(10) Không phân biệt đối xử giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực tài nguyên khác.
(11) Xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với hành vi làm hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị trí độc quyền.
(12) Nghiêm cấm cơ quan truyền thông, báo chí, tổ chức, cá nhân có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Về nguyên tắc xử lý vi phạm và giải quyết vụ việc trong hoạt động kinh doanh, Nghị quyết nêu rõ:
(1) Phân định rõ giữa trách nhiệm của pháp nhân với trách nhiệm của cá nhân trong xử lý vi phạm; giữa trách nhiệm hình sự với trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự; giữa trách nhiệm hành chính với trách nhiệm dân sự.
(2) Đối với vi phạm, vụ việc về dân sự, kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước; các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh được chủ động khắc phục vi phạm, thiệt hại. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì không áp dụng xử lý hình sự.
(3) Đối với vi phạm đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế chủ động, kịp thời, toàn diện trước và là căn cứ quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng xem xét khi quyết định khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và các biện pháp xử lý tiếp theo.
(4) Không được áp dụng hồi tố quy định pháp luật để xử lý bất lợi cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
(5) Đối với vụ việc mà thông tin, tài liệu, chứng cứ chưa đủ rõ ràng để kết luận có hành vi vi phạm pháp luật thì phải sớm có kết luận theo quy định của pháp luật tố tụng, thực hiện công bố công khai kết luận này.
(6) Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án.
(7) Bảo đảm việc niêm phong, kê biên tạm giữ, phong tỏa tài sản liên quan đến vụ việc, vụ án phải theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phạm vi, không xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm giá trị niêm phong, kê biên, tạm giữ, phong tỏa tương ứng với dự kiến hậu quả thiệt hại trong vụ án. Sử dụng hợp lý các biện pháp cần thiết để bảo đảm giá trị tài sản liên quan đến vụ án, giảm thiểu tác động của điều tra đến hoạt động sản xuất kinh doanh, sau khi có ý kiến thống nhất của các cơ quan tố tụng và không ảnh hưởng đến hoạt động điều tra.
(8) Phân biệt rõ tài sản hình thành hợp pháp với tài sản, thu nhập có được từ hành vi vi phạm pháp luật, tài sản khác liên quan đến vụ án; giữa tài sản, quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp với tài sản, quyền, nghĩa vụ của cá nhân người quản lý doanh nghiệp trong xử lý vi phạm và giải quyết vụ việc.
(9) Xử lý kịp thời, hiệu quả vật chứng, tài sản nhưng không làm ảnh hưởng đến việc chứng minh, giải quyết vụ việc, vụ án; sớm khắc phục hậu quả thiệt hại, đưa tài sản vào khai thác, sử dụng, nhằm khơi thông nguồn lực phát triển, tránh thất thoát, lãng phí; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3. Tình hình thực hiện công tác thanh tra
Theo số liệu thống kê, năm 2023 ngành Thanh tra (Thanh tra Chính phủ và các cơ quan liên quan) đã triển khai 7.689 cuộc thanh tra hành chính và 193.744 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành trên toàn quốc. Qua thanh tra, phát hiện nhiều sai phạm trong quản lý tài chính, đất đai, đầu tư xây dựng và các lĩnh vực khác, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Riêng ngành Thuế đã thực hiện 66.241 cuộc thanh tra, kiểm tra, đạt 90,8% kế hoạch năm 2023; kiểm tra 628.288 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Tổng số tiền kiến nghị xử lý qua thanh tra, kiểm tra là hơn 61.583 tỷ đồng, trong đó: thuế tăng thu hơn 16.136 tỷ đồng; giảm khấu trừ: 2.137 tỷ đồng; giảm lỗ: 43.309 tỷ đồng. Năm 2024, toàn ngành thanh tra đã triển khai 6.673 cuộc thanh tra hành chính và 118.983 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra, toàn ngành thanh tra đã kiến nghị thu hồi 85.403 tỷ đồng và 41 ha đất; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán do chưa thực hiện đúng quy định và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét xử lý 72.183 tỷ đồng, 204 ha đất; ban hành 105.108 quyết định xử phạt vi phạm hành chính của tổ chức, cá nhân với số tiền 4.150 tỷ đồng.
Toàn ngành đã tiến hành đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện 6.771 kết luận và quyết định xử lý về thanh tra, trong đó có 4.468 kết luận thanh tra đã hoàn thành 100% các nội dung phải thực hiện (chiếm 66,0% tổng số kết luận thanh tra được đôn đốc, kiểm tra). Qua đôn đốc, các cơ quan chức năng đã thu hồi 6.050 tỷ đồng (đạt tỷ lệ 45,3%), 77 ha đất; xử lý hành chính 2.965 tổ chức, 11.109 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra 108 vụ, 106 đối tượng; khởi tố 21 vụ, 29 đối tượng; ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ 399 văn bản về cơ chế, chính sách, pháp luật theo kiến nghị tại các kết luận thanh tra (đạt tỷ lệ 70,1%). Đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tổng số vụ việc tham nhũng được phát hiện qua thanh tra là 61 vụ việc, 107 người; trong đó, qua hoạt động kiểm tra nội bộ phát hiện 11 vụ, 19 người; qua hoạt động thanh tra, kiểm tra đã phát hiện 36 vụ, 69 người; qua giải quyết khiếu nại, tố cáo phát hiện 14 vụ, 19 người liên quan đến tham nhũng… Riêng ngành Thuế, trong 11/2024, cơ quan thuế đã thực hiện được 59.199 cuộc thanh tra, kiểm tra, đạt 91,7% kế hoạch năm 2024 và bằng 95% so với cùng kỳ năm 2023; kiểm tra được 525.792 hồ sơ, bằng 90,4% so với cùng kỳ năm 2023. Tổng số tiền kiến nghị xử lý qua thanh tra, kiểm tra là 58.277 tỷ đồng, bằng 100,6% so với cùng kỳ năm 2023.
Công tác thanh tra thực sự đã có sự chuyển biến tích cực trong việc cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt những thủ tục rườm rà và giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với cơ quan thanh tra. Việc áp dụng một số công cụ công nghệ thông tin trong thanh tra cũng giúp nâng cao hiệu quả và giảm thiểu thời gian thực hiện. Cơ quan thanh tra đã bắt đầu chú trọng vào công tác giám sát liên tục và có hệ thống đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong các lĩnh vực có tính rủi ro cao như thuế, bảo hiểm xã hội và lao động. Các cuộc thanh tra thuế đã giúp phát hiện và xử lý nhiều trường hợp doanh nghiệp gian lận thuế hoặc trốn thuế. Các biện pháp như sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu thuế, ứng dụng công nghệ thông tin vào thanh tra đã phần nào giúp công tác thanh tra thuế trở nên hiệu quả hơn. Trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, công tác thanh tra cũng có những bước tiến tích cực, bảo đảm quyền lợi người lao động được thực thi đúng đắn. Các doanh nghiệp có tác động lớn đến môi trường, như: các doanh nghiệp khai thác khoáng sản, sản xuất xi măng, hóa chất đã được thanh tra thường xuyên hơn về việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường, quản lý chất thải và tài nguyên thiên nhiên.
Còn một trong những vấn đề hạn chế của công tác thanh tra doanh nghiệp là thiếu đội ngũ thanh tra viên có chuyên môn sâu về các lĩnh vực, như: thuế, bảo hiểm xã hội và các vấn đề phức tạp khác. Đội ngũ thanh tra viên tại nhiều cơ quan thanh tra vẫn thiếu chuyên sâu và chưa được đào tạo đầy đủ để xử lý các trường hợp phức tạp. Công tác thanh tra cũng thiếu sự đổi mới về phương pháp, nhiều thanh tra viên vẫn sử dụng phương pháp truyền thống và chưa tận dụng tốt công nghệ thông tin để hỗ trợ công việc.
Mặc dù đã có những cải cách nhưng tình trạng thiếu minh bạch trong công tác thanh tra vẫn còn tồn tại. Một số doanh nghiệp vẫn có thể “chạy” thanh tra hoặc có sự không công bằng trong việc xử lý vi phạm. Điều này gây ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài ra, trong một số trường hợp, kết quả thanh tra không được công khai rõ ràng, khiến cho doanh nghiệp không thể biết được cơ sở của các quyết định xử lý. Trong công tác thanh tra vẫn còn tình trạng thanh tra chồng chéo, đặc biệt là khi có sự trùng lặp giữa các cơ quan thanh tra khác nhau, dẫn đến việc doanh nghiệp phải tiếp đón nhiều đoàn thanh tra mà không có sự phối hợp. Điều này không chỉ gây tốn kém chi phí mà còn ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.
Nguyên nhân của những hạn chế trên đến từ việc nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự chủ động trong việc tự kiểm tra và tuân thủ các quy định của pháp luật. Một số doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu thông tin và không hiểu rõ các nghĩa vụ pháp lý của mình, dẫn đến việc vi phạm các quy định mà không hay biết.
4. Giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra doanh nghiệp
Để nâng cao hiệu quả thanh tra doanh nghiệp, các cơ quan chức năng cần áp dụng các giải pháp toàn diện nhằm bảo đảm công tác thanh tra vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, vừa bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
4.1 Cải cách và nâng cao chất lượng công tác thanh tra
Cơ quan thanh tra cần tổ chức các khóa đào tạo định kỳ cho đội ngũ thanh tra về kiến thức pháp lý, kỹ năng thanh tra, và các công cụ kỹ thuật mới trong công tác thanh tra. Đặc biệt, đội ngũ thanh tra cần được huấn luyện về kỹ năng kiểm tra hồ sơ, phân tích tài liệu và các phương pháp kiểm tra hiện đại để có thể phát hiện ra các vi phạm một cách chính xác và kịp thời. Phân công chuyên trách thanh tra theo từng lĩnh vực cụ thể như thanh tra thuế, lao động, bảo hiểm xã hội, môi trường… để bảo đảm thanh tra viên có đủ chuyên môn và kiến thức trong lĩnh vực phụ trách. Việc phân công này giúp công tác thanh tra chính xác hơn, giảm thiểu sai sót và các kết luận thanh tra đáng tin cậy.
4.2 Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thanh tra
Xây dựng và triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu trực tuyến để theo dõi tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, từ đó dễ dàng tiếp cận thông tin về doanh nghiệp, giảm thiểu việc phải thu thập dữ liệu thủ công. Các cơ sở dữ liệu này có thể bao gồm thông tin về tài chính, thuế, bảo hiểm xã hội, lao động… của doanh nghiệp, từ đó giúp giảm thời gian kiểm tra, cải thiện hiệu quả thanh tra. Các công cụ phân tích dữ liệu (data analytics) và trí tuệ nhân tạo (AI) có thể giúp cơ quan thanh tra phát hiện các dấu hiệu bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp, ví dụ như gian lận thuế, các khoản chi phí bất hợp lý, hay các hành vi trốn thuế. Cơ quan thanh tra có thể áp dụng phần mềm chuyên dụng để xử lý và phân tích dữ liệu tài chính của doanh nghiệp một cách nhanh chóng và chính xác.
4.3 Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
Để tăng cường hiệu quả thanh tra, các cơ quan như thuế, bảo hiểm xã hội, lao động, môi trường và các cơ quan khác cần phối hợp chặt chẽ trong việc thanh tra doanh nghiệp. Việc chia sẻ thông tin giữa các cơ quan này sẽ giúp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đồng thời giảm thiểu sự trùng lặp, gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Các cơ quan thanh tra cần có các quy trình phối hợp rõ ràng để giải quyết các vấn đề vi phạm liên ngành, ví dụ như doanh nghiệp vừa vi phạm về thuế, vừa vi phạm về lao động hoặc môi trường. Điều này giúp xử lý các vấn đề một cách toàn diện và hiệu quả hơn.
4.4 Tăng tính minh bạch và công bằng trong công tác thanh tra
Các cơ quan thanh tra cần công khai quy trình, tiêu chí thanh tra và kết quả thanh tra để tránh sự can thiệp của các yếu tố bên ngoài vào quá trình kiểm tra; cần có các biện pháp để bảo đảm tính minh bạch trong việc xử lý các kết luận thanh tra, tránh tình trạng thiếu công bằng hoặc tạo điều kiện cho việc thao túng quá trình thanh tra. Doanh nghiệp cần có các kênh chính thức để khiếu nại hoặc phản ánh nếu cảm thấy quá trình thanh tra không công bằng hoặc có dấu hiệu vi phạm quyền lợi của doanh nghiệp. Các kênh này cần được bảo đảm tính bảo mật và giải quyết kịp thời để tăng cường sự tin tưởng của doanh nghiệp đối với cơ quan nhà nước.
4.5 Khuyến khích sự tự giác và tự kiểm tra của doanh nghiệp
Các cơ quan thanh tra có thể tổ chức các lớp hướng dẫn, đào tạo về pháp lý cho doanh nghiệp, giúp họ tự kiểm tra và điều chỉnh các vi phạm trước khi bị thanh tra. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp tránh được các rủi ro pháp lý mà còn giúp tiết kiệm thời gian và chi phí khi phải đối mặt với các cuộc thanh tra. Doanh nghiệp cần chủ động xây dựng các hệ thống quản lý chất lượng, tài chính và bảo hiểm xã hội nội bộ để tự kiểm tra và báo cáo đúng hạn cho cơ quan chức năng. Các cơ quan nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng hệ thống này.
4.6 Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm và khuyến khích doanh nghiệp tuân thủ pháp luật
Các cơ quan thanh tra cần áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với các doanh nghiệp vi phạm, không để cho những vi phạm nhỏ được bỏ qua. Điều này sẽ tạo ra sự răn đe đối với những doanh nghiệp khác. Nhà nước cần ban hành các chính sách ưu đãi như giảm thuế, miễn giảm các thủ tục hành chính cho những doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, bảo hiểm, an toàn lao động, môi trường… Điều này không chỉ khuyến khích doanh nghiệp tuân thủ mà còn giúp họ giảm chi phí và phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 198/2025/NQ-QH ngày về cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân.
2. Đỗ Thành Nam (2024). Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác thanh tra, lập biên bản thanh tra, lập dự thảo kết luận thanh tra. https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/thanhtrabtc/pages.
3. Tràng An (2023). Giải pháp phòng ngừa tham nhũng, nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp. https://thanhtravietnam.vn/giai-phap-phong-ngua-tham-nhung-nang-cao-hieu-qua-thanh-tra-kiem-tra-doanh-nghiep.html.
4. Lê Thị Thúy (2021). Thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. https://ttt.hanam.gov.vn/Pages/thanh-tra-kiem-tra-doanh-nghiep-o-viet-nam-hien-nay.aspx.
5. Huy Thắng (2025). Phát triển kinh tế tư nhân: Đề nghị quy định chặt chẽ nguyên tắc hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, hộ kinh doanh. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-de-nghi-quy-dinh-chat-che-nguyen-tac-hoat-dong-thanh-tra-kiem-tra-doanh-nghiep-ho-kinh-doanh.htm.