Nguyễn Trọng Nhân
Văn phòng Thị ủy Từ Sơn
(Quanlynhanuoc.vn) – Bộ máy hành chính nhà nước thuộc một trong ba trụ cột quyền lực của nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp), có vai trò thực hiện quyền hành pháp, quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội, là công cụ để Nhà nước triển khai các chủ trương, chính sách, pháp luật vào thực tiễn, duy trì trật tự xã hội và cung cấp các dịch vụ công thiết yếu cho người dân và doanh nghiệp. Hiện nay, việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu tinh giản bộ máy hành chính nhà nước trong kỷ nguyên mới là nhiệm vụ cấp thiết.
Từ khóa: Tổ chức và hoạt động, Ủy ban nhân dân tỉnh, tinh giản bộ máy, cơ quan hành chính nhà nước, kỷ nguyên mới.
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Hành chính công truyền thống (Old Public Administration – OPA) phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, đặc biệt chịu ảnh hưởng lớn từ các tư tưởng của Max Weber về bộ máy quan liêu (bureaucracy) và Woodrow Wilson về sự phân chia giữa chính trị và hành chính. Max Weber và mô hình quan liêu với mục tiêu bảo đảm tính khách quan, hiệu quả, ổn định và công bằng trong quản lý nhà nước. Woodrow Wilson và chính quyền hiệu quả: Wilson lập luận rằng, quản trị hành chính nên được tách rời khỏi chính trị. Chính trị gia sẽ quyết định chính sách, còn các nhà hành chính sẽ thực hiện chính sách một cách khoa học và hiệu quả, giống như một doanh nghiệp.
Học thuyết Quản lý công mới (New Public Management – NPM) xuất hiện từ những năm 1980 tại các nước phát triển như Anh, New Zealand, Úc, Mỹ như một phản ứng lại những hạn chế của hành chính công truyền thống. NPM chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ lý thuyết quản lý khu vực tư nhân (kinh doanh) và kinh tế học công cộng. Các nhà tư tưởng tiêu biểu bao gồm David Osborne, Ted Gaebler với cuốn sách “Reinventing Government”.
Học thuyết Quản trị công (Public Governance) và Quản trị công tốt (Good Governance) ra đời từ cuối những năm 1990 và đầu thế kỷ 21, các học giả và tổ chức quốc tế (như UNDP, Ngân hàng Thế giới – WB) nhận thấy, những hạn chế của NPM và sự phức tạp của môi trường quản lý công hiện đại. Quản trị công không chỉ đơn thuần là “quản lý” (management) của Nhà nước mà là một quá trình phức tạp hơn, liên quan đến sự tương tác giữa nhiều chủ thể.
Học thuyết Hành chính công mới (New Public Service – NPS) ra đời là một phản ứng trực tiếp với những hạn chế của NPM, đặc biệt là việc quá nhấn mạnh yếu tố kinh tế và bỏ qua các giá trị công. Các nhà tư tưởng như Janet Denhardt và Robert Denhardt là những người tiên phong trong việc phát triển học thuyết này, đề cao vai trò của công dân và lợi ích công.
Các học thuyết trên cho thấy, việc ra đời không loại trừ lẫn nhau mà có sự kế thừa, phát triển và bổ sung. Hành chính công truyền thống cung cấp nền tảng về tổ chức có trật tự, kỷ luật, là điểm khởi đầu để tinh giản bộ máy (phân công rõ ràng, giảm chồng chéo). Quản lý công mới đưa ra các công cụ về hiệu suất, kết quả, tinh gọn bộ máy mà UBND tỉnh cần học hỏi để đáp ứng yêu cầu tinh giản và nâng cao hiệu quả. Quản trị công và Quản trị công tốt cung cấp khung lý luận về sự tham gia, minh bạch, trách nhiệm giải trình – những yếu tố cốt lõi để nâng cao chất lượng hoạt động của UBND tỉnh trong kỷ nguyên mới, nơi người dân mong muốn sự minh bạch và tương tác nhiều hơn.
Nền hành chính công mới hiện đang đặt ra yêu cầu phải tinh giản bộ máy không chỉ vì mục tiêu hiệu quả kinh tế mà còn phải hướng tới phục vụ lợi ích công và công dân, bảo đảm tính công bằng xã hội.
Thực tiễn, bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam được tổ chức và hoạt động dựa trên các nguyên tắc cơ bản: (1) Tập trung dân chủ, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo từ trung ương đến địa phương; đồng thời phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm công khai, minh bạch. (2) Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi hoạt động phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ. (3) Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, đơn vị; tăng cường phối hợp liên ngành, liên cấp; thiết lập các cơ chế kiểm tra, giám sát, thanh tra để ngăn ngừa lạm dụng quyền lực. (4) Hiệu lực, hiệu quả, hướng tới việc đạt được mục tiêu quản lý một cách tối ưu về nguồn lực, thời gian và chất lượng. (5) Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, mọi thông tin liên quan đến hoạt động hành chính phải được công bố rộng rãi; cán bộ, công chức phải chịu trách nhiệm về hành vi và quyết định của mình.
Ủy ban nhân dân (UBND) là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, do Hội đồng nhân dân (HĐND) cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND. UBND tỉnh có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống hành chính nhà nước, là cầu nối giữa trung ương với địa phương, trực tiếp quản lý và điều hành mọi hoạt động trên địa bàn tỉnh. UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu sự chỉ đạo, kiểm tra của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp (Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành trung ương); đại diện cho quyền hành pháp của nhà nước ở địa phương. Thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản chỉ đạo của cấp trên, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trên toàn quốc; quản lý, điều hành phát triển kinh tế – xã hội. Tổ chức triển khai các quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển của tỉnh, cung cấp dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp thông qua các sở, ban, ngành và UBND cấp dưới; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; thúc đẩy mối quan hệ giữa Nhà nước và Nhân dân; tiếp nhận, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân.
UBND tỉnh hoạt động theo chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: các quyết định quan trọng được thảo luận tập thể trong phiên họp UBND nhưng khi đã có quyết định thì từng thành viên chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực được phân công. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, mọi hoạt động của UBND tỉnh phải trong khuôn khổ pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp. Thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo định kỳ và đột xuất lên HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành (chính phủ điện tử, chính phủ số), cải cách thủ tục hành chính để nâng cao hiệu quả và sự hài lòng của người dân. Phối hợp với các tổ chức chính trị – xã hội, duy trì mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội khác để thực hiện các nhiệm vụ được giao và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
2. Yêu cầu tinh giản bộ máy hành chính nhà nước hiện nay
Tinh giản bộ máy hành chính nhà nước là quá trình rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu công chức, viên chức một cách khoa học, hợp lý nhằm loại bỏ sự cồng kềnh, chồng chéo góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, giảm chi phí hành chính, đồng thời đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới (bao hàm nhiều khía cạnh hơn là chỉ đơn thuần cắt giảm biên chế. Đây là một quá trình tái cấu trúc toàn diện nhằm mục tiêu nâng cao năng lực quản lý).
Tinh giản bộ máy hành chính còn là yêu cầu khách quan xuất phát từ nhiều lý do của lịch sử để lại như: tính cồng kềnh, kém hiệu quả của bộ máy; chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; nhiều tầng nấc trung gian; biên chế lớn, thiếu hợp lý; lãng phí nguồn lực. Từ khách quan do yêu cầu hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, do đó cần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thu hút đầu tư, cần có một môi trường kinh doanh thông thoáng, một bộ máy hành chính liêm chính, hiệu quả, minh bạch. Ngoài ra, do áp lực từ sự phát triển của khoa học công nghệ (kỷ nguyên mới, chuyển đổi số) và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Các tiêu chí, nguyên tắc và phương pháp tinh giản bộ máy hành chính đòi hỏi cần cắt giảm đầu mối, giảm biên chế, sắp xếp lại chức năng nhiệm vụ, thúc đẩy cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp công lập.
Các nước phát triển (Mỹ, Anh, Canada, Úc, New Zealand) thường áp dụng các nguyên tắc của quản lý công mới (NPM): tư nhân hóa, thuê ngoài dịch vụ công; áp dụng các công cụ quản lý doanh nghiệp (quản lý theo kết quả, đánh giá hiệu suất); phân cấp, trao quyền cho các đơn vị cung cấp dịch vụ công. Việc tinh gọn theo chức năng, nhiệm vụ, loại bỏ những công việc không cần thiết hoặc có thể do tư nhân thực hiện. Chú trọng phát triển chính phủ điện tử/chính phủ số để tự động hóa quy trình, giảm biên chế. Ở Singapore nổi bật với triết lý Chính phủ “tinh gọn nhưng hiệu quả”, “người dân là khách hàng”. Áp dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ, chính sách lương cạnh tranh để thu hút nhân tài, đánh giá hiệu suất nghiêm ngặt. Hàn Quốc đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng chính phủ điện tử từ rất sớm; tập trung vào cắt giảm thủ tục, đơn giản hóa quy trình.
Việt Nam đã triển khai các chính sách tinh giản bộ máy hành chính từ nhiều năm qua, đặc biệt là sau Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Giai đoạn từ 2021 đến nay, cải cách gắn với chuyển đổi số và Chính phủ số đã đạt được một số thành tựu, như: giảm đầu mối tổ chức; giảm số lượng đơn vị sự nghiệp công lập; sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; giảm biên chế; chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin; cải cách thủ tục hành chính.
Mặc dù đạt được những kết quả quan trọng, quá trình tinh giản bộ máy hành chính ở Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức và tồn tại, như: còn tình trạng chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ; biên chế vẫn còn lớn và chưa hợp lý; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều; cơ chế, chính sách còn vướng mắc… Để hiện thực hóa tinh thần “tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”, tiến trình tinh giản bộ máy cần được đặt trong tổng thể cải cách thể chế đi đôi với việc nâng cao năng lực công vụ, tái thiết kế quy trình hành chính và hiện đại hóa hạ tầng số.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương hướng tới bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ Nhân dân tốt hơn, thực hiện triệt để nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. Đồng thời đây cũng là bước cải cách mạnh mẽ, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu.
Thời gian tới, cần thực hiện nguyên tắc phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp giữa trung ương với chính quyền địa phương, giữa chính quyền địa phương cấp tỉnh với chính quyền địa phương cấp xã một cách khoa học, đồng bộ, thống nhất; phân định rõ thẩm quyền giữa tập thể UBND và cá nhân Chủ tịch UBND, tạo điều kiện thực hiện cơ chế điều hành linh hoạt, hiệu quả, khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
3. Giải pháp tinh giản bộ máy hành chính nhà nước trong kỷ nguyên mới
Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ chế, chính sách.
Thể chế là nền tảng cốt lõi của mọi hoạt động. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật sẽ tạo hành lang pháp lý vững chắc cho quá trình tinh giản. Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của UBND tỉnh theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND tỉnh và các sở, ban, ngành trực thuộc; phân định rõ ràng, chi tiết; tăng cường phân cấp, phân quyền; hoàn thiện khung pháp lý về vị trí việc làm và quản lý biên chế. Xây dựng các cơ chế khuyến khích, động viên cũng như xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình tinh giản.
Thứ hai, kiện toàn cơ cấu tổ chức và sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ.
Cần có các phương án sáp nhập, giải thể, tổ chức lại các sở, ban, ngành, đơn vị sự nghiệp công lập một cách khoa học, hợp lý. Rà soát tổng thể, sắp xếp lại các sở, ban, ngành và đơn vị tương đương; sáp nhập các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tương đồng hoặc chồng chéo; giải thể các tổ chức không còn phù hợp; tái cấu trúc bộ máy bên trong các sở, ban, ngành. Rà soát, phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tránh chồng chéo.
Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Đề xuất giải pháp về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, đánh giá cán bộ đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới và tinh giản. Đổi mới công tác tuyển dụng và thu hút nhân tài. Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực số, tư duy đổi mới, khả năng thích ứng. Đào tạo, bồi dưỡng lại và chuyển đổi vai trò cho công chức; nâng cao năng lực số cho đội ngũ công chức, viên chức.
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số.
Đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp xây dựng chính quyền số, triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Xây dựng và hoàn thiện chính quyền số cấp tỉnh; phát triển hạ tầng số đồng bộ, hiện đại; đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình (mức độ 4); triển khai mạnh mẽ Đề án 06. Ứng dụng các công nghệ mới (AI, Big Data, IoT) trong quản lý, ra quyết định và cung cấp dịch vụ công. Phân tích dữ liệu lớn (Big Data) để hỗ trợ ra quyết định; tăng cường tính minh bạch và chống tham nhũng.
Thú năm, hoàn thiện quy trình hoạt động và nâng cao hiệu quả phối hợp.
Rà soát, cắt giảm các thủ tục hành chính không cần thiết, số hóa quy trình. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong nội bộ UBND tỉnh và với các cấp chính quyền khác. Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành, liên cấp hiệu quả; phát huy vai trò của HĐND, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; khuyến khích sự tham gia của người dân và doanh nghiệp.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, giám sát và trách nhiệm giải trình.
Cùng với cải cách thể chế và tổ chức bộ máy, việc nâng cao ý thức trách nhiệm công vụ và tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực trong khu vực hành chính công được xem là nhân tố then chốt bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thực thi chính sách. Trong bối cảnh hiện đại hóa nền hành chính, việc quản lý cán bộ, công chức không thể dừng lại ở các quy định về bổ nhiệm, kỷ luật hay phân cấp hành chính mà cần hướng đến một hệ thống công vụ dựa trên năng lực, minh bạch và có khả năng tự điều chỉnh thông qua cơ chế giám sát xã hội và trách nhiệm giải trình rõ ràng. Đề xuất các cơ chế kiểm tra, giám sát độc lập, minh bạch. Nâng cao vai trò của người dân và xã hội trong giám sát hoạt động của UBND tỉnh.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
2. Bộ Nội vụ (2022). Báo cáo số 5392/BC-BNV ngày 28/10/2022 của Bộ Nội vụ.
3. Báo cáo Chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ số tháng 7/2023. https://mic.mediacdn.vn/639352410187198464/2024/8/7/bao-cao-cds-thang-7-17229954802641902508866.pdf
4. Bộ Thông tin và Truyền thông (2023). Tài liệu thuyết minh chuyên đề: Kiến thức, kỹ năng sử dụng, khai thác hạ tầng số của cán bộ, công chức.
5. Bộ Nội vụ phê duyệt và công bố chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2024. https://moha.gov.vn/tin-tuc-su-kien/bo-noi-vu-phe-duyet-va-cong-bo-chi-so-hai-long-cua-d608-t57042.html?
6. Chỉ số Năng lực Cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam. https://pcivietnam.vn/uploads/VN-Bao-cao-dai-PCI/Bao-cao-PCI-2022.pdf