Bảo đảm quyền về giấy tờ tùy thân của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh 

TS. Phan Hải Hồ
Học viện Cán bộ TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Hiện nay, một bộ phận trẻ em, thanh niên (từ 16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đang sinh sống, học tập, làm việc trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nhưng chưa có các giấy tờ tùy thân, như: giấy khai sinh, thẻ căn cước, mã số định danh…, thậm chí chưa có các thông tin cá nhân trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Bài viết phân tích, đánh giá, tìm ra các nguyên nhân chủ quan, khách quan, từ đó có những khuyến nghị về chính sách, giải pháp nhằm kết nối, tháo gỡ những bất cập, trong đó tiến hành rà soát, đánh giá toàn diện, xây dựng lộ trình giải quyết có hiệu quả việc cấp các loại giấy tờ tùy thân cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có các quyền được học tập, quyền được làm việc, quyền được cư trú, quyền được hưởng phúc lợi và an sinh xã hội

Từ khóa: Trẻ em; thanh niênhoàn cảnh đặc biệt khó khăngiấy tờ tùy thân; giấy khai sinh; quyền và bổn phận trẻ em.

1. Đặt vấn đề

Điều 37 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Nguyên tắc Hiến định này đã được luật hóa nhằm tối ưu việc bảo vệ trẻ em và các quyền của trẻ em như: Luật Trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đìnhBộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự… và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến trẻ em, thanh niên (từ 16-18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, thực tiễn tại Việt Nam, đặc biệt là TP. Hồ Chí Minh thời gian qua, các quyền của trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chưa thực sự được bảo đảm vì không có giấy tờ tùy thân. Nguyên nhân phát xuất từ hoàn cảnh khó khăn, sống trong các hộ nhập cư, di cư biến động, hộ nghèo…, thậmchí còn là cơ chế, chính sách và thái độ, trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền.

Để thực hiện được mục tiêu bảo đảm các quyền của trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thông qua việc gắn kết trách nhiệm các cơ quan có thẩm quyền, phục vụ cho công tác cập nhật, tích hợp thông tin dữ liệu trên Cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư… Bài viết tập trung vàonghiên cứu, đánh giá thực trạng và dựa trên các số liệu cụ thể, chỉ ra những nguyên nhân cơ bản, từ đó có những khuyến nghị về các chính sách, giải pháp nhằm bảo vệ quyền trẻ em, thanh niên có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại TP. Hồ Chí Minh.

2. Thực trạng về giấy tờ tùy thân của trẻ em, thanh niên (16  18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn

Hiện nay, TP. Hồ Chí Minh có hơn 1,5 triệu trẻ em, trong đó có 75.000 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, 350.000 trẻ sống trong các hộ nhập cư, di biến động, hộ nghèo và trong số này, có hàng ngàn trẻ em nghèo không có giấy tờ tùy thân, dẫn đến không thể thực hiện được các loại giấy tờ khác để bảo đảm quyền nhân thân, quyền tài sản và các quyền khác về dân sự, hành chính1. Tình trạng này đang đặt ra cấp thiết trong mục tiêu bảo đảm an sinh cho người dân và chiến lược phát kinh tế – xã hội bền vững của TP. Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, thực trạng về đăng ký khai sinh.

Về thời hạn và trách nhiệm đăng ký khai sinh: theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Hộ tịchnăm 2014 “Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con…”. Tuy nhiên, trên thực tế, do các điều kiện, hoàn cảnh, ý thức trách nhiệm khác nhau mà phần lớn cha mẹ của trẻ hoặc người giám hộ không thực hiện hoặc chậm trễ trong việc đăng ký khai sinh.

Về điều kiện đăng ký khai sinh: trong một số trường hợp, trẻ em thuộc diện mồ côi, bị bỏ rơi được các mái ấm nhận nuôi nên không có đủ các điều kiện khác để đăng ký khai sinh… (nhiều trường hợp chậm so với quy định nhưng có có trường hợp trẻ đến tuổi đi học mà vẫn chưa đăng ký khai sinh…). 

Về giấy chứng sinh: theo Thông tư số 35/2017/TT-BYT ngày 29/12/2027 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu chuyên môn, nghiệp vụ ngành Y tế quy định về trích lục Giấy chứng sinh cũng tạo ra các khó khăn khi hồ sơ bệnh án không lưu trữ quá 10 năm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của trẻ. Do đó, dẫn đến các thực trạng sau: trẻ em sinh ra mà mẹ “trốn viện”không có giấy chứng sinh thì không được đăng ký khai sinh và sau 10 năm thì không thể trích lục được Giấy chứng sinh vì đã quá thời hạn lưu trữ nên tài liệu lưu trữ có thể đã bị hủy; kinh tế khó khăn, không có điều kiện xét nghiệm ADN, không có điều kiện về quê đăng ký khai sinh cho con; cha, mẹ của trẻ em đã chết, trẻ em sống với ông, bà nội nhưng không chứng minh được mối quan hệ ruột thịt…; xác nhận cư trú chỉ được giải quyết khi đã có hộ khẩu (trường hợp cha, mẹ không có hộ khẩu thì không được công an xác nhận; trẻ em đang sống lưu trú với cha, mẹ, người giám hộ thì không được đăng ký khai sinh nếu không có đủ các loại giấy tờ cần thiết theo quy định).

Thứ hai, thực trạng các giấy tờ nhân thân khác liên quan đến Giấy khai sinh và hệ quả pháp lý từ việc không có các giấy tờ tùy thân.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch thì “giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của cá nhân”, do vậy, mọi hồ sơ, giấy tờ cá nhân khác phải phù hợp và theo đúng nội dung giấy khai sinh. Thực tiễn đã phát sinh các vấn đề có liên quan đến giấy khai sinh như không có giấy khai sinh thì không thể làm các loại giấy tờ nhân thân khác, như thẻ căn cước, bảo hiểm… (điều kiện đầu tiên là phải có Giấy khai sinh nhưng muốn được đăng ký khai sinh thì phải có hộ khẩu; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thì không có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật nên không thể hoàn tất các thủ tục để cấp thẻ căn cước…). 

Hệ quả pháp lý từ việc không có Giấy khai sinh và các giấy tờ nhân thân này là trẻ em, thanh niên độ tuổi 16 – 18 có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không được đi học trường công lập; không được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và phúc lợi xã hội khác (bảo hiểm y tế của trẻ dưới 6 tuổi, hộ nghèo…); không được làm thẻ căn cước khi đủ tuổi; không được đăng ký thường trú; nguy cơ lao động sớm, bị lạm dụng sức khỏe, thân thể…

3.  Nguyên nhân việc không có các giấy tờ tùy thân

Một là xuất phát từ hoàn cảnh gia đình như do quá nghèo, không biết chữ; trẻ em sinh ra mồ côi, khuyết tật; cha mẹ bỏ đi, không rõ nguồn gốc, trẻ đường phố; cha mẹ là người di dân (chủ yếu quan tâm đến vấn đề “cơm áo gạo tiền”), ít chú ý đến các quyền của trẻ em theo quy định của pháp luật.

Hai là, trách nhiệm đăng ký khai sinh để được cung cấp các giấy tờ nhân thân khác không thuộc về ai. Hiện nay ở nhiều mái ấm trẻ em không có đăng ký khai sinh vì các cơ sở này chỉ có trách nhiệm nhận trẻ em mồ côi, cơ nhỡ, không có cha, mẹ… trong các hoàn cảnh đặc biệt để nuôi dưỡng mà chưa có ý thức trách nhiệm về đăng ký khai sinh hoặc không có đủ các giấy tờ liên quan để thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ; pháp luật chỉ quy định chung về quyền và bổn phận trẻ em, bảo đảm quyền trẻ em, trách nhiệm đăng ký khai sinh của cha mẹ, người thân của trẻ mà chưa quy định trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, các cơ quan có thẩm quyền trong các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền lợi của trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong những trường hợp này.

Ba là, liên quan đến giấy tờ nhân thân của cha, mẹ. Thực trạng này thường do cha mẹ không đăng ký kết hôn; cha mẹ không có giấy tờ tùy thân, không có tiền đóng viện phí, cha mẹ khai họ tên của người khác, trốn viện…). Hệ quả là con sinh ra nhưng không có giấy chứng sinh nên không thể làm đăng ký khai sinh và các giấy tờ nhân thân khác có liên quan.

Bốn là, liên quan đến việc đăng ký hộ khẩu thường trú của cha mẹ. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ cha mẹ trẻ ở nhà thuê, chủ nhà không bảo lãnh làm tạm trú, cư trú; không có hộ khẩu gốc ở TP. Hồ Chí Minh hoặc nhà đã bán, không xin được bảo lãnh của chủ nhà hoặc có nhà nhưng nhà ở không có giấy tờ hợp pháp nên không nhập được hộ khẩu. Hệ quả là con sinh ra mặc dù có giấy chứng sinh nhưng cũng không thể làm đăng ký khai sinh, đồng thời khi lớn lên cũng không thể làm các giấy tờ khác, như thẻ căn cước, hộ khẩu…

Năm là, từ ý thức của cha, mẹ, người thân. Hiện nay, do điều kiện sống, kiến thức xã hội và những áp lực khác của cuộc sống nên cha mẹ là người lao động, người nhập cư đã không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Hệ quả là các em không có các giấy tờ tùy thân theo quy định, không thể thực hiện được các quyền của mình, phải chịu thiệt thòi về quyền được đi học, quyền được hưởng bảo hiểm y tế, quyền được cư trú…

Sáu làtừ thể chế, chính sách, pháp luật. Các quy định cơ bản về trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, về các quyền cơ bản, việc bảo đảm các quyền này, cụ thể: Điều 13 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền được khai sinh, khai tử, có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân tộc, giới tính theo quy định của pháp luật”khoản 1, 2 Điều 30 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh”; Điều 11 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định “Giấy tờ có giá trị chứng minh người có quốc tịch Việt Nam như giấy khai sinh; trường hợp giấy khai sinh không thể hiện rõ quốc tịch Việt Nam thì phải kèm theo giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam của cha mẹ; Giấy chứng minh nhân dân; Hộ chiếu Việt Nam…”; Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: “Giấy khai sinh là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân khi được đăng ký khai sinh, giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của cá nhân, mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung về họ, chữ đệm, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê quán, quan hệ cha mẹ, con phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó…”; Điều 1 Luật Căn cước năm 2023 quy định: “Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước; thẻ căn cước, căn cước điện tử; giấy chứng nhận căn cước; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan”. Từ những quy định này,giấy khai sinh là cơ sở để xác định các vấn đề có liên quan để làm các giấy tờ tùy thân khác. Do vậy, trẻ em sinh ra, lớn lên nếu không có giấy khai sinh thì không được nhập hộ khẩu, cấp thẻ bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh miễn phí (trẻ dưới 6 tuổi), không được đi học trường công lập…

Bảy là, từ ý thức, quan điểm, thái độ của cán bộ, công chức có thẩm quyền, có liên quan. Hiện nay, một bộ phận cán bộ, công chức có thẩm quyền vẫn chưa thấu hiểu, cảm thông, thậm chí thờ ơ với trách nhiệm thực thi công vụ, nhiệm vụ của mình với bảo đảm các quyền của trẻ em, thanh niên (16-18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trong đó nhóm cán bộ, công chức này chưa thực sự vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật để giải quyết thấu tình, đạt lý cho việc cấp giấy khai sinh và hoàn tất các thủ tục cấp giấy tờ tùy thân cho trẻ em, thanh niên có hoàn cảnh đặc biệt khó khan đang ở độ tuổi 16 – 18; chưa có sự gắn kết, phối hợp với các cơ quan có trách nhiệm để hoàn thiện thủ tục pháp lý, cam kết trách nhiệm, để thực hiện tốt các thủ tục hành chính liên quan đến quyền của trẻ em, thanh niên, thậm chí còn có thái độ thờ ơ, sợ khó, sợ sai, sợ trách nhiệm hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho các chủ thể khác.

4Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp 

Thứ nhất, đối với cha, mẹ của trẻ em. Vì giấy tờ tùy thân là quyền Hiến định nên khi trẻ em không có các giấy tờ tùy thân thì có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền (Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp cấp huyện, UBND cấp xã và các tổ chức khác trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh…). Cha, mẹ của trẻ cũng nên có ý thức tuân thủ các quy định của pháp luật về đăng ký khai sinh, đặc biệt chú trọng việc bảo vệ các quyền có liên quan đến việc làm giấy tờ nhân thân cho trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Thứ hai, đối với Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành và chính quyền địa phương.

(1) Về Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành: cần sớm sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan đến quyền có giấy tờ nhân thân của trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, như: Luật Cư trú, Luật Hộ tịch, các quy định về hộ khẩu, thẻ căn cước phù hợp với thực tiễn theo các nguyên tắc cơ bản sau: 

– Quy định rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức, cơ quan có thẩm quyền đối với việc đăng ký khai sinh, làm các giấy tờ cho trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong các trường hợp như mồ côi, lang thang, cơ nhỡ, cha mẹ không có quốc tịch, cha mẹ bỏ đi biệt tích…

– Các quy định được ban hành phải bảo đảm trẻ em sinh ra có quyền có hộ khẩu mà không lệ thuộc vào có nhà ở, có quyền được cấp căn cước mà không lệ thuộc vào hộ khẩu; đăng ký khai sinh theo nơi sinh mà không lệ thuộc vào hộ khẩu của cha mẹ hoặc xác định nơi cư trú của cha mẹ; thời hạn đăng ký khai sinh là 8 ngày để phù hợp với thời gian nằm viện của sản phụ; thẩm quyền đi khai sinh có thể là người thân thích (ông, bà, cha, mẹ) hoặc nhân viên hộ lý của bệnh viện. 

(2) Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế và các bộ, ngành có liên quan khác: cần có sự phối hợp: (1) Ban hành các quy định về số hóa hồ sơ bệnh án, cho nhập liệu tích hợp chung với phần mềm hộ tịch của Bộ Tư pháp, cơ sở dữ liệu quốc gia về hộ tịch, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư… để kiểm soát được hồ sơ khai sinh bảo đảm trẻ em sinh ra có khai sinh, đến khi 14 tuổi thì đương nhiên được cấp thẻ căn cước (trừ trường hợp chết) mà không lệ thuộc vào việc có nhà hoặc hộ khẩu, tức là chỉ quản lý công dân không bị lệ thuộc vào hộ gia đình; đồng thời, chuyển lưu trữ bằng hình thức số hóa dữ liệu hồ sơ bệnh án thay vì lưu trữ bản giấy theo thời hạn như hiện nay sẽ đỡ tốn kém việc quản lý, xây dựng kho lưu trữ hồ sơ (theo quy định hồ sơ bệnh án nội trú, ngoại trú lưu trữ ít nhất 10 năm).

(3) Về chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân (HĐND), UBND cấp tỉnh trên cơ sở văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan, cần nhanh chóng ban hành các văn bản chỉ đạo, điều chỉnh các vấn đề ở địa phương liên quan đến việc đăng ký khai sinh, các giấy tờ tùy thân khác nhằm bảo đảm các quyền cho trẻ em, thanh niên (từ 16-18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cụ thể:

– HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết để bảo đảm các thủ tục, tạo hành lang pháp lý cho việc đăng ký khai sinh và các giấy tờ nhân thân khác trên cơ sở yêu cầu thực tiễn của địa phương (ví dụ, TP.Hồ Chí Minh nếu có nghị quyết của Hội đồng nhân dân Thành phố về bảo đảm việc đăng ký khai sinh, quy định các thủ tục rút gọn, giản tiện hoặc quy định sử dụng các giấy tờ khác thay thế cho Giấy chứng sinh như cam đoan, cam kết, chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền đối với các trường hợp đặc biệt nêu trên).

– UBND cấp tỉnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký khai sinh và các văn bản có liên quan đến nhân thân của trẻ em; ban hành các văn bản chỉ đạo Sở Tư pháp, phòng Tư pháp, công chức tư pháp – hộ tịch và các cơ quan hữu quan tạo điều kiện để tiến hành các thủ tục cấp giấy khai sinh và các giấy tờ tùy thân khác cho các đối tượng đặc biệt như trẻ em cơ nhỡ, mồ côi, lang thang đường phố,….

– Các bộ, ngành và chính quyền địa phương, các cơ quan có liên quan (kể cả tổ chức xã hội) cần có sự gắn kết, phối hợp để hoàn thiện thủ tục pháp lý, cam kết trách nhiệm, thực hiện tốt các thủ tục hành chính liên quan đến quyền của trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Thứ ba, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký khai sinh đầy đủ, kịp thời; các cơ quan chức năng thường xuyên tập huấn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm quyền, tuyên truyền viên. Đặc biệt, chú trọng việc giáo dục đạo đức công vụ, thái độ làm việc, trách nhiệm đối với quyền trẻ em, thanh niên (từ 16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Thứ tư, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã hoặc công chức tư pháp – hộ tịch (khi tham mưu cho lãnh đạo) cần nắm rõ nguyên tắc đăng ký hộ tịch, đặc biệt là việc đăng ký khai sinh phải bảo đảm tính đầy đủ, kịp thời và chính xác. Cần phải chủ động kiểm tra, rà soát để đăng ký khai sinh kịp thời; thường xuyên trau dồi kiến thức pháp luật, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; tiến hành cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh số hóa, tạo điều kiện thuận lợi trong việc đăng ký khai sinh.

5. Kết luận

Thực tiễn hiện nay, số lượng trẻ em, thanh niên (16 – 18 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chưa có các giấy tờ tùy thân, như: giấy khai sinh, thẻ căn cước, mã số định danh… trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nói riêng, cả nước nói chung là tương đối lớn. Đây được xem là vấn đề của xã hội mà Đảng và Nhà nước đang quan tâm giải quyết, do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần vào cuộc quyết liệt, có sự phối hợp đồng bộ, có các giải pháp, cách thức vận dụng linh hoạt, sáng tạo, bảo đảm tối ưu quyền trẻ em về các giấy tờ nhân thân.

Trong xu thế mới của Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển, cần ưu tiên các giải pháp bảo đảm quyền về giấy tờ nhân thân cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, từ đó, sẽ từng bước góp phần hoàn thiện các yếu tố có liên quan đến mã số định danh về cơ sở dữ liệu quốc gia, thúc đẩy nhanh chóng quá trình số hóa các thủ tục hành chính.

Chú thích:

1. TPHCM: Nhiều trẻ hoàn cảnh khó khăn chưa được cấp giấy khai sinh. https://tphcm.chinhphu.vn/tphcm-nhieu-tre-hoan-canh-kho-khan-chua-duoc-cap-giay-khai-sinh-10119376.htm

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ trưởng Bộ Y tế (2017). Thông tư số 35/2017/TT-BYT ngày 29/12/2027 quy định về thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu chuyên môn nghiệp vụ ngành Y tế.

2. Liên hiệp quốc (1973). Công ước về tuổi tối thiểu được đi làm việc năm 1973.

3. Liên hiệp quốc (1989). Công ước về quyền trẻ em năm 1989.

4. Quốc hội (2005). Bộ luật Dân sự năm 2005.

5. Quốc hội (2013). Bộ luật Lao động năm 2013.

6. Quốc hội (2023). Luật Căn cước năm 2023.

7. Quốc hội (2014). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

8. Quốc hội (2008). Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008.

9. Quốc hội (2016). Luật Trẻ em năm 2016.