Sẵn sàng cung cấp và sử dụng hạ tầng cung ứng dịch vụ công trực tuyến tại vùng Đông Nam bộ

ThS. Bùi Quốc Lộc
Trường Chính trị tỉnh Bình Dương
NCS của Học viện Hành chính và Quản trị công

(Quanlynhanuoc.vn) – Việc cung ứng dịch vụ công trực tuyến giúp giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp, góp phần nâng cao chỉ số cải cách hành chính (Par Index), chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPAS), chỉ số ứng dụng công nghệ – thông tin (ICT Index), đặc biệt là chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI. Bài viết đánh giá thực trạng hạ tầng về dịch vụ công trực tuyến của vùng Đông Nam Bộ; từ đó, đề ra giải pháp trong việc cung cấp và sử dụng hạ tầng cung ứng dịch vụ công trực tuyến góp phần tạo nên một nền “hành chính phục vụ, kiến tạo”

Từ khóa: Dịch vụ công trực tuyến; công nghệ – thông tin; chính phủ điện tử; kỷ nguyên mới; vùng Đông Nam Bộ.

1. Đặt vấn đề 

Tính đến thời điểm ngày 12/6/2025, sau khi quốc hội khóa XV kỳ họp thứ 9 biểu quyết về việc sắp xếp các đơn vị hành chính năm 2025, Đông Nam Bộ bao gồm các tỉnh, thành phố: TP. Hồ Chí Minh (hợp nhất Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu); tỉnh Đồng Nai (hợp nhất Bình Phước); tỉnh Tây Ninh (hợp nhất Long An)1. Với vai trò là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, vùng Đông Nam Bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đông Nam bộ đang nỗ lực từng ngày chuẩn bị hạ tầng kỹ thuật với nhiều trung tâm dữ liệu, khoa học – công nghệ tiên tiến, hiện đại sẵn sàng cung ứng dịch vụ công trực tuyến trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện như hiện nay.

2. Thực trạng cơ sở hạ tầng về dịch vụ công trực tuyến tại vùng Đông Nam Bộ

Một là, hạ tầng số.

Hạ tầng viễn thông, hạ tầng số của vùng Đông Nam Bộ đã được xây dựng, phát triển theo đúng định hướng đồng bộ, hiện đại và rộng khắp, hình thành cơ sở hạ tầng kết nối quan trọng, đồng bộ, dung lượng lớn, tốc độ cao… kết nối liên xã, liên tỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế – xã hội. Hạ tầng truyền dẫn và mạng cáp viễn thông đã được triển khai đồng bộ với hạ tầng giao thông (các tuyến đường tỉnh, quốc lộ, cao tốc…) được thực hiện quy hoạch và nâng cấp, xây dựng mới. Đồng thời, hạ tầng ngầm cáp viễn thông cũng được triển khai đồng bộ với hạ tầng cấp, thoát nước, hạ tầng chiếu sáng, truyền tải điện, trong đó, hạ tầng truyền tải điện lực đều có hạ tầng vừa phục vụ cho thông tin và truyền thông vừa phục vụ cho hạ tầng liên kết để các doanh nghiệp chia sẻ sử dụng.

Hệ thống mạng đường trục vùng Đông Nam Bộ sử dụng công nghệ hiện đại nhất, tương thích với các quốc gia trên thế giới và khu vực, như: công nghệ truyền dẫn quang OTN, DWDM; công nghệ chuyển mạch quang tự động ASON/GMPLS. Mạng đường trục quốc gia của vùng Đông Nam Bộ thuộc hệ thống mạng đường trục quốc gia được hình thành từ mạng cáp quang Bắc – Nam với 4 tuyến cáp đường trục chính, hệ thống mạch vòng cáp quang khu vực phía Bắc, Đông Bắc và phía Nam, kết hợp với các mạng Metrolink tại 4 trung tâm: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ. 

Tổng băng thông đường trục trong nước đạt trên 23 Tbps. Băng rộng di động phát triển mạnh mẽ, tỷ lệ dân số được phủ sóng 4G của vùng Đông Nam Bộ đạt 100%. Mạng di động 5G cũng đã được cấp phép thử nghiệm mạng và dịch vụ viễn thông tại các tỉnh, thành thuộc vùng Đông Nam bộ.2

Hai là, đầu tư xây dựng các trung tâm dữ liệu.

Trong kỷ nguyên số, dữ liệu là yếu tố then chốt và trung tâm dữ liệu là “xương sống” hỗ trợ quá trình chuyển đổi số, cung cấp nền tảng cho việc lưu trữ, xử lý, phân tích và chia sẻ dữ liệu hiệu quả. Trong đó, việc cung ứng dịch vụ công trực tuyến không thể thiếu sự hỗ trợ các dữ liệu Big Data. Các trung tâm dữ liệu bảo đảm tính sẵn sàng cao, bảo mật và hiệu suất. Các yếu tố, như: hệ thống làm mát, hệ thống nguồn điện dự phòng, bảo mật vật lý và an ninh mạng đều được chú trọng khi xây dựng Idc Data Center để bảo vệ, phục vụ cho một tổ chức duy nhất hoặc được chia sẻ giữa nhiều tổ chức thông qua các dịch vụ đám mây hoặc cho thuê chỗ đặt máy chủ. 

Vùng Đông Nam Bộ có 1 số trung tâm dữ liệu tập trung chủ yếu tại TP. Hồ Chí Minh. Trong đó, top 4 đơn vị cho thuê hạ tầng trung tâm dữ liệu gồm3:

(1) VNPT: có 3 trung tâm; 

(2) Viettel IDC: có Trung tâm dữ liệu Hoàng Hoa Thám  và Trung tâm dữ liệu Bình Dương. Những trung tâm dữ liệu này đều được xây dựng với chuẩn quốc tế Tier III; 

(3) FPT: có 2/5 trung tâm dữ liệu đặt tại TP. Hồ Chí Minh; trong đó, 1 đang xây dựng. Trung tâm dữ liệu EPZ (Tân Thuận) của FPT Telecom đạt chứng chỉ quốc tế Uptime Tier III do Mỹ chứng nhận và trở thành trung tâm dữ liệu thứ 2 đạt chứng chỉ này tại Việt Nam (sau VNPT); 

(4) CMC: có 2/3 trung tâm dữ liệu đều tại TP. Hồ Chí Minh. Những trung tâm dữ liệu của CMC tại đây đã gia nhập những tổ chức liên minh trung tâm dữ liệu lớn tại châu Á (ADCA).

Ngày 23/4/2025, Tập đoàn Viettel khởi công xây dựng Trung tâm Dữ liệu và Nghiên cứu phát triển công nghệ cao Viettel tại Khu công nghiệp Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh. Dự án được triển khai trên diện tích gần 4ha, tổng công suất thiết kế lên tới 140MW điện, với khoảng 10.000 tủ rack. Trung tâm dữ liệu Tân Phú Trung được thiết kế và vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế Uptime Tier III. Trung tâm có mật độ công suất trung bình 10kW/rack, cao gấp 2,5 lần mức trung bình tại Việt Nam. Công suất rack cao nhất lên tới 60 kW, đáp ứng nhu cầu tính toán hiệu năng cao của các mô hình và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) quy mô lớn4

Cùng với đó, Trung tâm cách mạng công nghiệp 4.0 (C4IR) TP. Hồ Chí Minh chính thức vận hành, đánh dấu bước tiến quan trọng trong chiến lược chuyển đổi số của Việt Nam. Đây là trung tâm đầu tiên tại Việt Nam và thứ hai ở Đông Nam Á thuộc mạng lưới Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), tập trung vào nghiên cứu và triển khai các giải pháp công nghệ tiên tiến, như: trí tuệ nhân tạo (AI), IoT và công nghệ sinh học.

Ba là, thành lập trung tâm chuyển đổi số.

Việc thành lập trung tâm chuyển đổi số tại vùng Đông Nam Bộ được các tỉnh, thành phố tích cực triển khai. Đơn cử:

(1) Tại Tây Ninh. Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh ban hành Quyết định số 2237/QĐ-UBND ngày 22/11/2024 về việc tổ chức lại Trung tâm Giám sát, điều hành kinh tế, xã hội tập trung tỉnh Tây Ninh thành Trung tâm Chuyển đổi số tỉnh Tây Ninh. Trung tâm có chức năng tổng hợp, giám sát, điều hành các dịch vụ đô thị thông minh của tỉnh; thực hiện các nhiệm vụ sự nghiệp về lĩnh vực công nghệ – thông tin và truyền thông; cung cấp các giải pháp, dịch vụ tư vấn về ứng dụng trong lĩnh vực công nghệ – thông tin và truyền thông, các dịch vụ đô thị thông minh; triển khai nhiệm vụ, giải pháp chuyển đổi số; bảo đảm an toàn thông tin mạng…

(2) Tại Bình Phước. Thành lập Trung tâm Khoa học, Công nghệ và Chuyển đổi số trực thuộc Sở Khoa học và Công nghệ theo Quyết định số 484/QĐ-UBND ngày 28/02/2025 và bắt đầu đi vào hoạt động từ 01/3/2025. Trung tâm với hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, gồm: 9 tủ rack, 60 máy chủ vật lý, hơn 400 máy chủ ảo hóa, 40 thiết bị mạng và thiết bị bảo mật5. Trung tâm đủ năng lực để vận hành liên tục, đáp ứng khối lượng xử lý dữ liệu ngày càng tăng, đồng thời sẵn sàng mở rộng khi có nhu cầu phát sinh trong tương lai. Trung tâm được triển khai theo mô hình an toàn 3 lớp, có hệ thống giám sát và cảnh báo sớm rủi ro. Trung tâm đã kết nối với trục liên thông văn bản quốc gia, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các nền tảng chia sẻ, tích hợp dữ liệu phục vụ chuyển đổi số.

(3) Tại TP. Hồ Chí Minh. Trung tâm Chuyển đổi số TP. Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Công nghệ – thông tin và Truyền thông. Trung tâm có chức năng thực hiện các nhiệm vụ về triển khai, thực thi các chương trình, đề án, kế hoạch chuyển đổi số, đô thị thông minh; cung cấp dịch vụ hỗ trợ chuyển đổi số cho các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp Thành phố; thực hiện các chức năng khác về chuyển đổi số phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của Thành phố.

Trung tâm sẽ khai thác tối đa các công nghệ số và dữ liệu, mở rộng hợp tác, thúc đẩy và huy động các nguồn lực để cung cấp các dịch vụ số phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng thuận tiện, dễ dàng, an toàn; phát triển chính quyền số, tạo động lực phát triển kinh tế số, kinh tế dữ liệu. Trung tâm cũng vận hành trung tâm dữ liệu, mạng truyền số liệu chuyên dùng; vận hành, hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật giúp các đơn vị triển khai, sử dụng các nền tảng số, hệ thống thông tin dùng chung của Thành phố.

Đánh giá chung

Vùng Đông Nam Bộ có hạ tầng viễn thông tương đối đồng bộ và hiện đại so với các vùng khác của cả nước và tiếp tục được mở rộng, hiện đại hóa và phát triển mạnh mẽ. Vùng có lợi thế về hệ thống đường trục, mạng lưới kết nối… đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các nhà cung cấp điện toán đám mây cung cấp các giải pháp chuyên biệt cho từng nhóm khách hàng. Các nền tảng cho phát triển chính phủ điện tử, thực hiện chuyển đổi số quốc gia tiếp tục được quan tâm thúc đẩy phát triển, đáp ứng kịp thời nhu cầu đa dạng của xã hội. Cùng với đó, Đông Nam bộ có ngành công nghiệp công nghệ – thông tin, điện tử, viễn thông phát triển và có Khu Công viên phần mềm Quang Trung, là 1 trong 4 khu công nghệ – thông tin tập trung đang hoạt động của cả nước. Vùng có điểm phục vụ bưu chính phân bố rộng khắp, có thể đáp ứng nhu cầu chuyển phát bưu gửi cho thị trường nội địa và quốc tế.

Tuy vậy, trong quá trình phát triển, vùng Đông Nam Bộ đã và đang gặp phải những hạn chế, thách thức do các “điểm nghẽn” về hạ tầng kỹ thuật tạo ra. Việc triển khai tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ vào sản xuất, kinh doanh đã triển khai, tuy nhiên chưa huy động được sự tham gia của các công ty, doanh nghiệp lớn để liên kết và thúc đẩy các dự án khởi nghiệp sáng tạo, nghiên cứu và ứng dụng cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt là trong việc đổi mới công nghệ và tăng năng suất lao động. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học công nghệ, chuyển đổi số hiện nay còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Công tác phát triển hạ tầng số và xây dựng dữ liệu dùng chung chưa được triển khai đồng bộ, gây khó khăn cho việc tích hợp và chia sẻ.

3. Đề xuất một số giải pháp

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền cho tổ chức cá nhân thực hiện dịch vụ công trực tuyến.

Về nội dung tuyên truyền, triển khai thực hiện theo các văn bản, như: Quyết định số 1588/QĐ-TTg ngày 17/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao chất lượng về cung cấp và sử dụng hiệu quả dịch vụ công trực tuyến đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 26/4/2022 về phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia… nhằm nâng cao nhận thức và khả năng tiếp cận thông tin về cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Mọi người dân đều được cung cấp thông tin, được hướng dẫn, hỗ trợ, phổ cập kiến thức và kỹ năng sử dụng dịch vụ công trực tuyến để có khả năng tự sử dụng một cách thuận tiện, nhanh chóng. 

Về hình thức tuyên truyền, đăng tải tài liệu và video hướng dẫn sử dụng dịch vụ công trực tuyếntrên Cổng Dịch vụ công quốc gia và hệ thống giải quyết thủ tục hành chính các cập. Các cơ quan thông tấn, báo chí xây dựng chuyên trang, chuyên mục và sản xuất các sản phẩm truyền thông để đẩy mạnh tuyên truyền. Cùng với đó, tiếp tục phát huy năng lực của tổ công nghệ số cộng đồng thông qua việc tham dự các lớp tập huấn nâng cao kiến thức và kỹ năng số, hỗ trợ tuyên truyền và hướng dẫn người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến.  

Thứ hai, triển khai dịch vụ công trực tuyến cần phải đồng bộ gắn liền với chuyển đổi số toàn diện. 

Chuyển đổi số chính là “cú hích” để khu vực Đông Nam Bộ tái cấu trúc lại nhân lực theo hướng tinh gọn, hiệu quả, lấy năng lực làm thước đo. Việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, trong đó có khu vực công cần gắn với chuyển đổi số, phát triển giáo dục, đào tạo, thu hút đầu tư chất lượng và cải cách hành chính. Trong bối cảnh chuyển đổi số và cải cách hành chính diễn ra mạnh mẽ, nguồn nhân lực chất lượng cao đang trở thành nền tảng cho một nền hành chính hiện đại. Để không lỡ nhịp với sự phát triển, vùng Đông Nam Bộ, trong đó có khu vực công buộc phải thay đổi từ đào tạo đến chính sách sử dụng nhân lực.

Tiếp tục thực hiện tốt nguyên tắc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thôngkhi lấy sự hài lòng của tổ chức, cá nhân là thước đo chất lượng và hiệu quả phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức và cơ quan có thẩm quyền. Cùng với đó, việc giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông được quản lý tập trung, thống nhất; giải quyết thủ tục hành chính kịp thời, nhanh chóng, thuận tiện, đúng pháp luật, công bằng, bình đẳng, khách quan, công khai, minh bạch và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Thứ ba, tiếp tục đầu tư hạ tầng kỹ thuật

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư để huy động tối đa nguồn nội lực, kết hợp hài hòa với ngoại lực cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là phát triển hạ tầng công nghệ – thông tin, cơ sở dữ liệu, giao thông trọng điểm và hạ tầng logistics. Nâng cao khả năng kết nối về hạ tầng nội vùng, liên vùng đặc biệt là các hạ tầng thiết yếu để cung cấp dịch vụ công trực tuyến, như: các trung tâm dữ liệu, chuyển đổi số, khoa học và công nghệ,…

Tăng cường thu hút đầu tư phát triển mạnh các ngành công nghiệp hiện đại, như: công nghiệp chế biến, chế tạo; điện tử; công nghệ số… Trong đó, cần ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao, như: công nghệ AI; sản xuất chíp, bán dẫn, rô bốt, công nghiệp năng lượng tái tạo, vật liệu mới; phát triển công nghiệp hỗ trợ. 

Thứ tư, nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu.

Thực tế cho thấy, ở đâu người đứng đầu quan tâm, sâu sát, chỉ đạo quyết liệt, làm gương trong hoạt động ứng dụng công nghệ – thông tin và hoạt động cung cấp dịch vụ công trực tuyến thì ở đó đơn vị sẽ có số lượng dịch vụ công trực tuyến được cung cấp và tỷ lệ giao dịch trực tuyến cao hơn so với các đơn vị khác. Do đó, việc đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức, hiểu biết về công nghệ – thông tin nói chung và các kiến thức, hiểu biết cũng như xu hướng trong xây dựng chính phủ điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến cần được quan tâm cho đối tượng lãnh đạo quản lý để bảo đảm có được sự thống nhất về nhận thức, hành động thực tiễn.

4. Kết luận

Cách mạng công nghiệp 4.0 đã, đang và sẽ định hình lại cách thức quản trị trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị nhằm thực hiện triển khai công việc linh hoạt và hiệu quả; làm thay đổi cách con người sống, làm việc và tương tác với nhau. Trong bối cảnh đó, quản lý nhà nước đối với dịch vụ công trực tuyến có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phục vụ công dân, tổ chức và là chìa khóa quyết định thành công của quá trình xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số ở Việt Nam hiện naynhất là trong bối cảnh sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả. Cáctỉnh miền Đông Nam bộ, đã và đang chuẩn bị cơ sở hạ tầng về dịch vụ công trực tuyến tốt nhất để sẵn sàng đạt được mục tiêu xác định với hiệu quả cao nhất.

Chú thích:

1. Quốc hội (khóa XV) (2024). Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh năm 2025.

2, 3. Số liệu từ Luận án Tiến sĩ: “Quản lý nhà nước về việc cung ứng dịch vụ công trực tuyến tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ” theo Quyết định số 197-QĐ/HVHC&QTC ngày 04/3/2025 của Học viện Hành chính và Quản trị công.

4. Viettel xây dựng trung tâm dữ liệu lớn nhất tại Việt Nam https://vnexpress.net/viettel-xay-trung-tam-du-lieu-lon-nhat-tai-viet-nam-4877866.html

5. Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước (2025). Quyết định số 484/QĐ-UBND ngày 28/02/2025về việcthành lập Trung tâm khoa học, công nghệ và chuyển đổi số tỉnh Bình Phước trực thuộc Sở Khoa học và Công nghệ, Bình Phước.

6. Chính phủ (2025). Nghị định số 118/2025/NĐ-CP ngày 09/6/2025 về thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại Bộ phận Một cửa và Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

2. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 1325/QĐ-TTg ngày 04/11/2024 về ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

3. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024 về phê duyệt quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

4. Văn phòng Chính phủ (2024). Thông báo số 434/TB-VPCP ngày 25/9/2024 về kết luận hội nghị chuyên đề: “Nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến” của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số.

5. Thủ tướng chủ trì Hội nghị chuyên đề nâng cao hiệu quả cung cấp và sử dụng dịch vụ công trực tuyến. https://baochinhphu.vn/thu-tuong-chu-tri-hoi-nghi-chuyen-de-nang-cao-hieu-qua-cung-cap-va-su-dung-dich-vu-cong-truc-tuyen-102240901082922917.htm