Thực trạng pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam và một số kiến nghị, đề xuất

Phạm Bảo Anh
NCS Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Hoàn thiện pháp luật về giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam là vấn đề quan trọng, phức tạp, cần thiết phải có các nghiên cứu khoa học chuyên sâu. Bài viết đánh giá thực trạng pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Công ty đại chúng, pháp luật về giám sát công ty đại chúng, thị trường chứng khoán, hoàn thiện pháp luật.

1. Đặt vấn đề

Công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong hai trường hợp sau: Công ty có vốn điều lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên, có vốn chủ sở hữu từ 30 tỷ đồng trở lên và có tối thiểu 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải cổ đông lớn nắm giữ; Công ty đã thực hiện chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng thông qua đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định tại Điều 32, Văn bản hợp nhất số 41/VBHN-VPQH ngày 26/02/2025 của Văn phòng Quốc hội về hợp nhất Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019 của Quốc hội và Luật số 56/2024/QH15 ngày 29/11/2024 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tính đến ngày 31/12/2024, tổng số công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam cần thực hiện giám sát là 1.719 công ty, gồm: 1.547 công ty đại chúng đã niêm yết, đăng ký giao dịch (không bao gồm công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ); 172 công ty đại chúng đã đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhưng chưa niêm yết, đăng ký giao dịch (không bao gồm công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ)1.

Giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng, bảo vệ sự minh bạch, công bằng và ổn định trên thị trường chứng khoán. Đây là một yếu tố then chốt bảo đảm sự phát triển bền vững của thị trường tài chính và góp phần xây dựng lòng tin của nhà đầu tư. Công tác giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán giúp cảnh báo, kịp thời phát hiện và ngăn ngừa vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công ty đại chúng, là điều kiện quan trọng cho sự phát triển bền vững thị trường chứng khoán, bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư chứng khoán. Xuất phát từ vai trò nêu trên nên việc xây dựng, thiết lập thể chế giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán có vị trí, vai trò rất quan trọng.

Thực tiễn cho thấy, pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã luôn được quan tâm, thường xuyên được bổ sung, ngày càng hoàn thiện, giúp nâng cao hiệu quả giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn tồn tại hạn chế, bất cập. Trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh đã chi phối, tác động đến xây dựng, hoàn thiện pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Do đó, nghiên cứu về pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, cần thiết phải nghiên cứu, đánh giá toàn diện về pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam làm căn cứ, cơ sở đề ra giải pháp hoàn thiện về pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Qua đó, nâng cao hơn nữa hiệu quả giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán, góp phần xây dựng thị trường chứng khoán phát triển bền vững, lành mạnh, tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

2. Đánh giá thực trạng pháp luật giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Pháp luật về giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán ngày càng hoàn thiện. Luật Chứng khoán năm 2006. Cho đến nay đã có 4 lần sửa đổi, bổ sung, lần gần nhất là Luật Chứng khoán năm 2019 (được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 56/2024/QH15, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025) (viết tắt là Luật số 56/2024/QH15). Trong đó, có nhiều điểm mới, hoàn thiện hơn, tạo điều kiện giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Cụ thể là:

(1) Đã đặt ra yêu cầu cao hơn về minh bạch, nhất là vấn đề công bố thông tin. Quy định pháp luật hiện nay theo hướng buộc công ty đại chúng phải thực hiện công bố thông tin định kỳ, gồm: báo cáo tài chính quý, sáu tháng đầu năm và hằng năm. Ngoài ra, công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường khi có các sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động, tình hình tài chính hoặc giá cổ phiếu, như thay đổi nhân sự quản lý cấp cao, giao dịch mua bán cổ phiếu lớn, sáp nhập, hợp nhất… Những yêu cầu này góp phần giúp nhà đầu tư có đầy đủ dữ liệu để đánh giá doanh nghiệp khách quan, nâng cao tính minh bạch của thị trường chứng khoán.

Tại khoản 2 Điều 12 Luật Chứng khoán năm 2019 chỉ quy định chung về cấm hành vi như “thao túng giá chứng khoán” nhưng không có định nghĩa cụ thể về hành vi này. Điều này dẫn đến khoảng trống pháp lý, gây khó khăn trong xác định cụ thể hành vi vi phạm; thiết lập căn cứ xử phạt; áp dụng thống nhất trong xử lý hành vi sai phạm. Tại khoản 1 Điều 1 Luật số 56/2024/QH15 đã bổ sung 6 hành vi thao túng thị trường chứng khoán. Qua đó, giúp cơ quan quản lý có cơ sở phát hiện, xử lý vi phạm, tăng hiệu quả giám sát hành vi gian lận trên thị trường.

(2) Đã có nhiều hơn quy định về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Trong đó, đã quy định rõ quyền tiếp cận thông tin, quyền tham dự và biểu quyết tại đại hội cổ đông, quyền yêu cầu công ty cung cấp thông tin hoặc khởi kiện khi quyền lợi bị xâm phạm (Điều 34, Văn bản hợp nhất số 41/VBHN-VPQH ngày 26/02/2025 của Văn phòng Quốc hội). Việc giám sát công ty đại chúng thông qua cơ chế công bố thông tin, kiểm toán độc lập, kiểm soát nội bộ và xử lý vi phạm giúp hạn chế tình trạng lạm dụng quyền lực của cổ đông lớn hoặc ban điều hành. Qua đó, củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường, góp phần phát triển bền vững thị trường vốn. Bên cạnh đó, pháp luật giám sát công ty đại chúng đóng vai trò quan trọng trong thiết lập và duy trì môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch. Các hành vi bị nghiêm cấm như thao túng giá chứng khoán, giao dịch nội gián, công bố thông tin sai lệch hoặc chậm trễ đã được quy định rõ trong luật và bị xử lý nghiêm minh (Điều 12, Văn bản hợp nhất số 41/VBHN-VPQH ngày 26/02/2025 của Văn phòng Quốc hội).

Cơ quan quản lý có quyền thanh tra, kiểm tra, đình chỉ giao dịch và xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự khi cần thiết. Điều này giúp hạn chế hành vi tiêu cực, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, đặc biệt là quyền lợi của nhà đầu tư, tạo điều kiện phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán.

(3) Quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn về công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Trong đó, quy định chặt chẽ về hồ sơ đăng ký công ty đại chúng, quyền và nghĩa vụ của công ty đại chúng, hủy tư cách công ty đại chúng, hồ sơ hủy tư cách công ty đại chúng, nguyên tắc quản trị công ty áp dụng với công ty đại chúng, nội dung quản trị công ty áp dụng với công ty đại chúng (Điều 31-41, Văn bản hợp nhất số 41/VBHN-VPQH ngày 26/02/2025 của Văn phòng Quốc hội). Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm tuân thủ pháp luật của các công ty đại chúng, giúp bảo vệ lợi ích nhà đầu tư và cải thiện chất lượng thị trường.

(4) Đã bổ sung cơ chế đình chỉ và hủy bỏ đợt chào bán chứng khoán riêng lẻ. Điều 31 Luật Chứng khoán năm 2019 chỉ quy định “Chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán”, không có quy định về đình chỉ, hủy bỏ chào bán chứng khoán riêng lẻ, cơ chế pháp lý chưa thực sự rõ ràng dẫn đến phát hành sai quy định không bị kiểm soát kịp thời. Khoản 10 Điều 1 Luật số 56/2024/QH15 đã bổ sung đình chỉ chào bán chứng khoán riêng lẻ, hủy bỏ chào bán chứng khoán riêng lẻ9.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có quyền đình chỉ đợt chào bán chứng khoán riêng lẻ đã đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tối đa là 60 ngày trong các trường hợp: hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán riêng lẻ có thông tin sai lệch, bỏ sót nội dung quan trọng có thể ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và gây thiệt hại cho nhà đầu tư; phân phối chứng khoán không thực hiện đúng quy định của pháp luật. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định hủy bỏ đợt chào bán chứng khoán riêng lẻ đã đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong các trường hợp: hết thời hạn đình chỉ theo quy định mà tổ chức phát hành không khắc phục được thiếu sót dẫn đến việc bị đình chỉ đợt chào bán chứng khoán riêng lẻ; sau khi kết thúc đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ và cổ phiếu chưa đưa vào niêm yết hoặc đăng ký giao dịch mà phát hiện đợt chào bán vi phạm quy định; sau khi kết thúc đợt chào bán trái phiếu riêng lẻ mà phát hiện đợt chào bán vi phạm quy định. Qua đó, tạo điều kiện để phát hiện, xử lý vi phạm của công ty đại chúng, xây dựng thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, bền vững.

(5) Đã thiết lập cơ chế pháp lý rõ ràng về nhà đầu tư chuyên nghiệp. Pháp luật đã mở rộng đối tượng nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Khoản 3 Điều 1 Luật 56/2024/QH15 đã sửa đổi Điều 11 Luật Chứng khoán năm 2019 theo hướng mở rộng đối tượng công nhận nhà đầu tư chuyên nghiệp, bổ sung cá nhân và tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Trong đó, đã quy định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp bao gồm cả “nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”. Đồng thời, quy định rõ hơn về hoạt động của nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp: nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp được tham gia mua, giao dịch, chuyển nhượng trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ; được tham gia mua, giao dịch, chuyển nhượng đối với trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ thuộc một trong hai trường hợp cụ thể (trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ có xếp hạng tín nhiệm và có tài sản bảo đảm đối với trái phiếu đó; trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ có xếp hạng tín nhiệm và có bảo lãnh thanh toán của tổ chức tín dụng đối với trái phiếu đó). Qua đó, thu hút tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán, thúc đẩy hội nhập và nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam, tăng tính minh bạch.

Bên cạnh kết quả đạt được, pháp luật về giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán còn một số bất cập, hạn chế như sau:

Một là, quy định về công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán chưa gắn với kiểm tra, xác minh. Pháp luật đã quy định nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ và bất thường của công ty đại chúng (khoản 1, 2 Điều 120 Văn bản hợp nhất số 41/VBHN-VPQH ngày 26/02/2025 của Văn phòng Quốc hội). Ngoài ra, công ty đại chúng phải công bố thông tin theo yêu cầu của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con khi xảy ra một trong các sự kiện sau: sự kiện ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; có thông tin liên quan đến công ty ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán và cần phải xác nhận thông tin đó (khoản 3 Điều 120). Tuy nhiên, cơ chế kiểm tra, xác minh tính chính xác, trung thực của thông tin công bố còn rất hạn chế. Cơ quan quản lý chủ yếu tiếp cận thông tin do doanh nghiệp tự cung cấp, chưa có hệ thống giám sát độc lập hoặc công cụ phân tích dữ liệu để sàng lọc, phát hiện rủi ro và dấu hiệu sai phạm.

Hai là, thiếu quy định hậu kiểm với đơn vị kiểm toán. Theo quy định của pháp luật hiện nay, tổ chức kiểm toán được chấp thuận thực hiện kiểm toán cho công ty đại chúng phải tuân thủ quy định của pháp luật về kiểm toán độc lập và có các nghĩa vụ giải trình, cung cấp thông tin, số liệu liên quan đến hoạt động kiểm toán cho công ty đại chúng theo yêu cầu của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; sau khi phát hành báo cáo kiểm toán công ty đại chúng, trường hợp phát hiện công ty đại chúng có sai phạm trọng yếu do không tuân thủ pháp luật và các quy định liên quan đến báo cáo tài chính đã được kiểm toán thì phải thông báo bằng văn bản cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 21, Văn bản hợp nhất số 41/VBHN-VPQH ngày 26/02/2025 của Văn phòng Quốc hội). Tuy nhiên, pháp luật hiện nay không đề cập đến cơ chế hậu kiểm toán với đơn vị để kiểm soát rủi ro, như kiểm tra chéo, công khai báo cáo chất lượng kiểm toán, hay xử lý nghiêm các trường hợp thông đồng trong kiểm toán công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Điều này có khả năng dẫn đến báo cáo tài chính của công ty đại chúng đã được kiểm toán vẫn không phản ánh trung thực tình hình tài chính doanh nghiệp, gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư.

Ba là, chưa có quy định cụ thể của pháp luật về hệ thống giám sát điện tử công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Pháp luật đã quy định Nhà nước có chính sách đầu tư hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin cho hoạt động của thị trường chứng khoán, phát triển nguồn nhân lực cho ngành chứng khoán, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán (khoản 1 Điều 6 Văn bản hợp nhất số 41/VBHN-VPQH ngày 26/02/2025 của Văn phòng Quốc hội). Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán có quyền yêu cầu doanh nghiệp viễn thông cung cấp tên, địa chỉ, số máy gọi, số máy được gọi, thời gian gọi để xác minh, xử lý hành vi bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể về ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin để giám sát. Hệ thống giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phần lớn vẫn dựa trên báo cáo định kỳ, chưa có quy định về tích hợp đầy đủ các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) hay cảnh báo tự động. Hạn chế này ảnh hưởng đến thực tiễn giám sát công ty đại chúng, việc phát hiện sai phạm, hành vi bất thường thường bị chậm trễ, thậm chí chỉ xảy ra sau khi hậu quả đã diễn ra, hệ thống giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu kiểm soát hiệu quả trên thị trường chứng khoán hiện đại.

Bốn là, thiếu quy cụ thể về quan hệ phối hợp giữa cơ quan trong giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Một bất cập lớn trong hệ thống pháp luật về giám sát công ty đại chúng tại Việt Nam là thiếu quy định rõ ràng, thống nhất và có tính ràng buộc pháp lý về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước như: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các Sở Giao dịch Chứng khoán (VNX, HOSE, HNX), Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC), Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an và cơ quan thuế. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về cơ chế phối hợp, ví dụ như: phương thức chia sẻ dữ liệu, thời hạn phản hồi thông tin, chế độ trách nhiệm liên ngành, hay quy trình xử lý liên cơ quan. Do đó, các cơ quan còn phối hợp chậm trễ trong xử lý một số vụ vi phạm. Khi xảy ra vụ việc nghiêm trọng, do không có quy định rõ ràng về phân công trách nhiệm phối hợp nên có tình trạng né tránh trách nhiệm.

Năm là, năng lực thực thi pháp luật giám công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán còn hạn chế. Hiệu quả thực thi pháp luật giám công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán phụ thuộc rất lớn vào năng lực của cơ quan quản lý và hệ thống công nghệ hỗ trợ giám sát. Hiện tại, các công cụ giám sát công ty đại chúng, phân tích chất lượng tài chính và đánh giá tình hình quản trị công ty vẫn còn ở mức cơ bản. Việc phát hiện vi phạm chủ yếu dựa trên phản ánh, khiếu nại hoặc sự cố đã xảy ra. Vấn đề giám sát chủ động, phòng ngừa sớm vi phạm còn yếu. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ giám sát công ty đại chúng còn mỏng, một số còn thiếu kinh nghiệm, chưa được bồi dưỡng chuyên môn sâu về tài chính, kế toán doanh nghiệp và công nghệ số. Những vẫn đề này đã làm giảm hiệu quả triển khai các quy định mới của pháp luật về giám sát công ty đại chúng, đặc biệt trong bối cảnh thị trường ngày càng phức tạp và chịu tác động từ công nghệ tài chính.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Thứ nhất, bổ sung quy định pháp luật về công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán gắn với kiểm tra, xác minh. Thiết lập cơ chế hậu kiểm bắt buộc với thông tin đã công bố. Sau khi công ty đại chúng thực hiện công bố thông tin theo quy định tại Luật Chứng khoán, cơ quan quản lý (như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các sở Giao dịch Chứng khoán) có trách nhiệm thực hiện kiểm tra, xác minh thông tin đã công bố, gồm: kiểm tra định kỳ các thông tin bắt buộc như báo cáo tài chính, báo cáo thường niên; kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu bất thường, nghi ngờ sai lệch thông tin; đối chiếu thông tin công bố với dữ liệu từ báo cáo kiểm toán, hồ sơ nội bộ, giao dịch thực tế hoặc thông tin từ cơ quan nhà nước khác (thuế, ngân hàng…).

Nghiên cứu, bổ sung quy định Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Sở Giao dịch Chứng khoán có quyền phối hợp với tổ chức kiểm toán độc lập hoặc đơn vị giám định để xác minh tính trung thực, hợp lý của thông tin. Kết quả kiểm tra, xác minh được sử dụng để xếp loại mức độ tuân thủ công bố thông tin của công ty đại chúng; làm cơ sở cảnh báo sớm rủi ro thông tin cho nhà đầu tư; đề xuất xử lý vi phạm hành chính hoặc hình sự nếu phát hiện thông tin gian dối, che giấu thông tin quan trọng. Cần triển khai hệ thống kết nối tự động giữa thông tin được công bố và dữ liệu nội bộ của cơ quan quản lý để kiểm tra chéo và phát hiện sai lệch kịp thời; ứng dụng công nghệ thông tin để kiểm soát, bảo đảm tính nhất quán của các báo cáo được công bố. Việc kết hợp giữa công bố thông tin và kiểm tra, xác minh cần được thể chế hóa thành quy trình pháp lý rõ ràng. Công bố thông tin là nghĩa vụ chủ động của công ty đại chúng; kiểm tra, xác minh là công cụ giám sát của cơ quan quản lý để bảo đảm tính chính xác, minh bạch và kịp thời của thông tin. Việc gắn kết hai hoạt động này sẽ nâng cao chất lượng thông tin trên thị trường chứng khoán, góp phần bảo vệ nhà đầu tư và bảo đảm hoạt động thị trường công bằng, hiệu quả.

Thứ hai, bổ sung quy pháp luật về hậu kiểm với đơn vị kiểm toán công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Bổ sung cơ chế hậu kiểm định kỳ và đột xuất đối với tổ chức kiểm toán. Quy định hậu kiểm định kỳ (hằng năm hoặc hai năm một lần) bắt buộc với các tổ chức kiểm toán có khách hàng là công ty đại chúng. Tăng cường hậu kiểm đột xuất trong các trường hợp: có dấu hiệu sai lệch trọng yếu trong báo cáo tài chính đã kiểm toán; có phản ánh từ nhà đầu tư, cơ quan truyền thông hoặc cơ quan quản lý về sai phạm. Nội dung hậu kiểm gồm: kiểm tra hồ sơ kiểm toán; đánh giá mức độ tuân thủ chuẩn mực kiểm toán Việt Nam; đánh giá tính phù hợp giữa nội dung báo cáo kiểm toán và thực trạng tài chính; kiểm tra cơ cấu tổ chức, hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ của đơn vị kiểm toán.

 Đề xuất bổ sung xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức kiểm toán dựa trên số lượng và tính chất vi phạm; mức độ tuân thủ quy định và chuẩn mực kiểm toán; kết quả đào tạo, bồi dưỡng, duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ. Cần bổ sung quy định trách nhiệm liên đới và chế tài xử lý sai phạm. Nếu thông tin trong báo cáo tài chính đã kiểm toán bị cơ quan có thẩm quyền xác định là gian lận, sai lệch trọng yếu, đơn vị kiểm toán phải chịu trách nhiệm liên đới với doanh nghiệp được kiểm toán, bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư (nếu có), bị xử phạt hành chính, đình chỉ hoặc thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kiểm toán. Trường hợp có dấu hiệu hình sự thì chuyển cơ quan Công an để điều tra, xác minh, kết luận, xử lý theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, quy định cụ về hệ thống giám sát điện tử công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về hệ thống giám sát điện tử đối với công ty đại chúng là một yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh thị trường chứng khoán phát triển nhanh và phức tạp. Hệ thống này không chỉ giúp nâng cao năng lực giám sát của cơ quan quản lý mà còn bảo vệ nhà đầu tư, nâng cao tính minh bạch, công bằng và hiệu quả của thị trường. Trước hết, cần bổ sung khái niệm pháp lý rõ ràng về giám sát điện tử trong Luật Chứng khoán hoặc các nghị định hướng dẫn.

Giám sát điện tử là hoạt động thu thập, xử lý, phân tích và cảnh báo thông tin về hoạt động công bố thông tin, giao dịch, quản trị công ty và nghĩa vụ pháp lý của công ty đại chúng thông qua hệ thống công nghệ thông tin do cơ quan quản lý thiết lập”. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện quy định pháp lý về thu thập và chia sẻ dữ liệu giám sát điện tử công ty đại chúng; quy định về xử lý vi phạm qua hệ thống giám sát điện tử công ty đại chúng. Đặc biệt, cần thể chế hóa trách nhiệm vận hành hệ thống giám sát điện tử của cơ quan chủ trì quản lý hệ thống (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước); cơ quan phối hợp khai thác và sử dụng dữ liệu (Sở Giao dịch Chứng khoán, Bộ Tài chính…). Bổ sung cơ chế hậu kiểm, kiểm toán hệ thống công nghệ thông tin nhằm phòng tránh sai lệch dữ liệu, can thiệp trái phép.

Thứ tư, hoàn thiện cơ chế phối hợp và phân định trách nhiệm giữa các cơ quan giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Để bảo đảm tính thống nhất, hiệu lực và hiệu quả trong giám sát công ty đại chúng, pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng quy định rõ ràng và cụ thể hơn về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của từng cơ quan quản lý liên quan. Pháp luật về chứng khoán hiện nay đã đề cập nhiệm vụ giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhưng vẫn chưa có quy định cụ thể về quan hệ phối hợp giữa Ủy ban Chứng khoán Nhà nước với Sở Giao dịch Chứng khoán, Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam, cơ quan thanh tra tài chính, cơ quan điều tra và cơ quan thuế.

Do đó, cần bổ sung các văn bản hướng dẫn quy định cơ chế phối hợp giữa Ủy ban Chứng khoán Nhà nước với cơ quan nêu trên trong xử lý vi phạm, chia sẻ dữ liệu giám sát và phân công trách nhiệm trong điều tra các hành vi vi phạm, như thao túng chứng khoán, gian lận tài chính…; phân định rõ vai trò, trách nhiệm và có cơ chế phối hợp chặt chẽ sẽ tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm hoặc bỏ sót vi phạm trong thực tiễn. Cơ chế phối hợp cần quy định rõ: nội dung phối hợp; hình thức phối hợp; cách thức phối hợp; hướng dẫn cách thức phối hợp để xử lý tình huống bất thường, điển hình trong giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán.  

Thứ năm, nâng cao năng lực giám sát và đầu tư công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ giám sát công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán. Hiệu quả giám sát công ty đại chúng không chỉ phụ thuộc vào quy định pháp lý mà còn gắn liền với năng lực tổ chức và công nghệ giám sát. Mặc dù pháp luật hiện nay đã giao nhiệm vụ giám sát cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Sở Giao dịch nhưng chưa quy định rõ tiêu chuẩn kỹ thuật, yêu cầu tối thiểu về hệ thống giám sát điện tử, chuẩn năng lực của cán bộ phụ trách. Do đó, cần bổ sung quy định yêu cầu đầu tư và vận hành hệ thống giám sát theo thời gian thực có tích hợp AI, dữ liệu lớn (Big Data). Đồng thời, xây dựng khung tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và chương trình đào tạo định kỳ bắt buộc cho cán bộ giám sát. Việc chuyên môn hóa và số hóa hoạt động giám sát góp phần phát hiện sớm rủi ro và xử lý hiệu quả hành vi vi phạm trong bối cảnh thị trường phức tạp.

Chú thích:
1. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (2024). Báo cáo thường niên năm 2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2019). Luật Chứng khoán năm 2019.
2. Quốc hội (2024). Luật số 56/2024/QH15 ngày 29/11/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính.
3. Văn phòng Quốc hội (2025). Văn bản hợp nhất số 41/VBHN-VPQH ngày 26/02/2025 của Văn phòng Quốc hội về hợp nhất Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019 của Quốc hội và Luật số 56/2024/QH15 ngày 29/11/2024 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính.