Định hướng hợp tác thực thi pháp luật Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh phát triển mới

Trung tá, TS. Lục Anh Tuấn
Hội đồng Lý luận Trung ương
Thượng tá Trần Anh Tuấn
Cục Đối ngoại, Bộ Công an

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết nghiên cứu, phân tích thực trạng quan hệ hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản trong bối cảnh quan hệ song phương Việt Nam – Nhật Bản phát triển ngày càng tốt đẹp. Từ đó khuyến nghị định hướng thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản phù hợp với yêu cầu của bối cảnh mới, cần thống nhất nhận thức nhiệm vụ công tác quốc phòng, an ninh không chỉ bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà còn trở thành động lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế của đất nước. Mục tiêu hướng tới là mọi người dân đều được thụ hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được phát triển toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ khóa: Định hướng hợp tác, thực thi pháp luật, Việt Nam, Nhật Bản, bối cảnh mới.

1. Bối cảnh phát triển mới trong quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản

Quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản đang phát triển ngày càng tốt đẹp, thực chất, hiệu quả và toàn diện trên nhiều lĩnh vực (chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh…) và trên tất cả các kênh quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và đối ngoại Nhân dân. Nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao song phương, lãnh đạo đạo hai nước đã tuyên bố nâng cấp quan hệ lên “Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới” vào tháng 11/2023, mở ra kỷ nguyên mới trong quan hệ song phương. Mức độ tin cậy chính trị giữa hai nước ngày càng cao; giao lưu, tiếp xúc cấp cao và các cấp ngày càng được đẩy mạnh1.

Nhật Bản tiếp tục là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam, là đối tác số 1 về hỗ trợ phát triển chính thức – ODA (tính đến hết năm tài khóa 2024 là khoảng hơn 23 tỷ USD) và hợp tác lao động. Lao động người Việt chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số lao động nước ngoài tại Nhật, chiếm 24,8% (570.708 người). Trung Quốc và Philipin giữ vị trí thứ hai và thứ ba với lần lượt 408.805 lao động (chiếm 17,8%) và 245.565 lao động (chiếm 10,7%)2.

Nhật Bản là đối tác du lịch đứng thứ ba của Việt Nam. Trong năm 2024, có 711.464 lượt khách Nhật Bản đến du lịch Việt Nam; có 621.100 lượt khách Việt Nam sang du lịch Nhật Bản. Về thương mại, Nhật Bản là đối tác xếp thứ tư. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam với Nhật Bản đạt 42,6 tỷ USD, tăng 2,7% so với năm 2023, trong đó xuất khẩu của Việt Nam đạt 24,6 tỷ USD (tăng 5,5%), nhập khẩu từ Nhật Bản đạt 21,6 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản đã tăng 5 lần, từ 110 tỷ yên lên 590 tỷ yên, trong giai đoạn 2008 – 2023. Đến cuối tháng 01/2025, Nhật Bản có 5.512 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 78,3 tỷ USD, xếp thứ 3 trong số 149 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam3.

Tháng 4/2025 vừa qua, Thủ tướng Nhật Bản Ishiba Shegeru và phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Nhật Bản thăm, làm việc chính thức tại Việt Nam. Chuyến thăm đã thành công tốt đẹp, mở ra nhiều cơ hội hợp tác song phương, nhất là về khoa học – công nghệ, thông qua hợp tác nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (trong đó có việc đào tạo kỹ sư công nghệ chip bán dẫn), chuyển giao công nghệ, đầu tư công nghệ cao trong các lĩnh vực nông nghiệp, chuyển đổi xanh, đổi mới sáng tạo…

2. Quan hệ đối ngoại nhân dân Việt Nam – Nhật Bản

Quan hệ đối ngoại nhân dân của hai nước cũng ngày càng mở rộng. Số lượng người Việt Nam tại Nhật Bản đã tăng gấp hơn 6 lần trong thập kỷ vừa qua; từ 99.865 người (năm 2014) lên trên 600.000 người (tính đến tháng 6/2024); trở thành cộng đồng người nước ngoài lớn thứ hai tại Nhật Bản, chỉ đứng sau Trung Quốc4.

Người Việt Nam hiện sinh sống, làm việc và học tập trên khắp 47 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Nhật Bản, trong đó tập trung chủ yếu tại tỉnh Aichi (hơn 40.000 người), Tokyo (hơn 36.000 người), tỉnh Osaka (hơn 35.000 người), tỉnh Saitama (gần 26.000 người), tỉnh Chiba (khoảng 20.000 người), tỉnh Fukuoka (khoảng 20.000 người)… Hiện có trên 40 hội đoàn người Việt Nam tại Nhật Bản. Cộng đồng người Việt tại Nhật Bản có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội của Nhật Bản; hòa nhập vào xã hội sở tại; và trở thành cầu nối văn hóa giữa hai nước. Nhiều người Việt, sau khi tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc tại Nhật Bản đã trở về Việt Nam khởi nghiệp, tạo việc làm và thu nhập cho người khác hoặc làm việc cho các công ty Nhật Bản tại Việt Nam5.

Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là do thiếu hiểu biết và bị xúi giục, nhiều công dân Việt Nam đã vi phạm pháp luật tại Nhật Bản. Số lượng người Việt vi phạm pháp luật tại Nhật Bản có chiều hướng gia tăng, gây ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín của cộng đồng. Theo thống kê của Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản, số vụ vi phạm pháp luật của người Việt đã tăng gấp ba lần trong giai đoạn 2014 – 2024, chiếm 44% tổng số vụ do người nước ngoài tại Nhật Bản phạm tội.  Hiện có khoảng 20.000 – 25.000 người Nhật đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam, chủ yếu tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hải Phòng theo các chương trình hợp tác kinh tế (sản xuất, xây dựng, tài chính…), giao lưu văn hóa6… Đây là một trong những cộng đồng người Nhật lớn nhất tại Đông Nam Á. Cộng đồng người Nhật chấp hành tốt quy định pháp luật tại Việt Nam; có rất ít trường hợp vi phạm được ghi nhận.

3. Kết quả hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản

Trong bối cảnh mới, quan hệ hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản ngày càng tăng cường, đã đạt được nhiều kết quả tích cực, ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực. Kết quả hợp tác giữa hai bên làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương Việt Nam – Nhật Bản, thiết thực triển khai quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới. Tuyên bố nâng cấp quan hệ giữa hai nước đặt ra yêu cầu tăng cường hợp tác trên lĩnh vực tư pháp và pháp luật, nhất là việc hợp tác phổ biến hiểu biết về pháp luật của nước sở tại và “nghiên cứu mở rộng hợp tác nhằm ứng phó, giải quyết các thách thức trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống như an ninh mạng, an ninh kinh tế, khủng bố, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia bao gồm lừa đảo trực tuyến và qua điện thoại từ nước ngoài, tội phạm mạng và buôn bán người”7.

Thứ nhất, hai bên thường xuyên trao đổi đoàn các cấp, nhất là các đoàn cấp cao của Bộ Công an và Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản. Gần đây nhất là 3 đoàn đại biểu cấp cao của Bộ Công an Việt Nam sang thăm, làm việc tại Nhật Bản: Đoàn công tác của Thứ trưởng Lê Quốc Hùng (dự Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng Việt Nam – Nhật Bản lần thứ 8, tháng 5/2024); Đoàn công tác của Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Lâm (tháng 10/2024) và Đoàn công tác của Thứ trưởng Nguyễn Văn Long (tháng 12/2024).

Phó Tư lệnh Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản Tachikawa Koichi đã thăm, làm việc tại Việt Nam và đồng chủ trì Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng luân phiên lần thứ 9 tại Hà Nội trong tháng 5/2025. Lãnh đạo hai cơ quan đã cùng đánh giá lại kết quả triển khai các thỏa thuận đã đạt được, đồng thời thống nhất phương hướng, nội dung hợp tác trong thời gian tới thiết thực, hiệu quả hơn nữa trong bối cảnh tình hình mới, đáp ứng yêu cầu của công tác bảo đảm an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm, đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới.

Ngoài ra, hai bên cũng đã phối hợp tổ chức Hội nghị song phương INTERPOL Việt Nam – Nhật Bản lần thứ nhất trong tháng 10/2024. Hội nghị do Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Văn phòng INTERPOL Việt Nam và Văn phòng INTERPOL Nhật Bản phối hợp đồng tổ chức. Hội nghị đã tập trung đánh giá về những kết quả đã đạt được trong quá trình phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm giữa lực lượng Cảnh sát hai nước qua kênh INTERPOL và tương trợ tư pháp về hình sự.

Thứ hai, thường xuyên chia sẻ thông tin, đánh giá về tình hình quốc tế, khu vực hai bên quan tâm; trao đổi kinh nghiệm công tác, hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm (như: tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm mạng, tội phạm ma túy, khủng bố…), khoa học – kỹ thuật nghiệp vụ, nhất là phát triển công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo (AI) và chuyển đổi số vào công tác bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội tại mỗi nước. Bộ Công an đã triển khai sĩ quan liên lạc tại Nhật Bản từ cuối tháng 3/2025, mở ra cơ hội tăng cường hơn nữa việc trao đổi thông tin và hợp tác giữa hai bên.

Thứ ba, phối hợp bảo đảm an ninh, an toàn cho các đoàn cấp cao thăm viếng lẫn nhau và công dân hai nước học tập, lao động, sinh sống trên lãnh thổ của nhau. Phối hợp xác minh thông tin tội phạm, điều tra, truy bắt tội phạm qua kênh INTERPOL, ASEANAPOL và tương trợ tư pháp hình sự8.

Thứ tư, ký kết các văn bản hợp tác, tạo hành lang pháp lý cho quan hệ hợp tác song phương. Hai bên đã ký Biên bản hợp tác (MOC) giữa Bộ Công an Việt Nam và Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia và xây dựng năng lực thực thi pháp luật (tháng 5/2024).

Thứ năm, hợp tác đào tạo cán bộ và trang thiết bị công tác nhằm nâng cao năng lực phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm xuyên quốc gia…

4. Tăng cường hợp tác Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh mới

Tình hình thế giới, khu vực thời gian qua và trong thời gian tới diễn biến ngày càng nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đan xen giữa các thách thức an ninh truyền thống và ngày càng nhiều các thách thức an ninh phi truyền thống (biến đổi khí hậu, nước biển dâng, dịch bệnh, an ninh nguồn nước, ô nhiễm môi trường, an ninh mạng…). Môi trường chính trị, kinh tế và an ninh toàn cầu liên tục bất ổn, chịu tác động sâu sắc bởi cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa các nước lớn, xung đột vũ trang, sự áp đặt cường quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, thực dụng và dân túy.

Sự tiến triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, nhất là trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), internet vạn vật (IoT)… không chỉ tạo ra lực lượng sản xuất mới, động lực mới cho tăng trưởng kinh tế mà còn làm thay đổi cả các phương thức xung đột, hình thái chiến tranh. Các tổ chức tội phạm cũng lợi dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ để phạm tội và che giấu hành vi phạm tội với phương thức tinh vi, xảo quyệt hơn… Thực tiễn đặt ra những thách thức to lớn đối với việc duy trì hòa bình, an ninh và ổn định cũng như bảo đảm quyền con người tại các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Với thế và lực đã tích lũy được sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đang vững bước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hiện thực hóa khát vọng phát triển, sánh vai cùng cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định mục tiêu phát triển của đất nước. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để hiện thực hóa mục tiêu này, việc duy trì môi trường an ninh ổn định có ý nghĩa rất quan trọng.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã có quan điểm chỉ đạo:“Thống nhất nhận thức nhiệm vụ công tác quốc phòng, an ninh không chỉ bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà còn trở thành động lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế của đất nước trong kỷ nguyên mới”9. Chỉ đạo này hết sức quan trọng, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn cao nhưng cũng đặt ra yêu cầu cao hơn đối với công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại nói chung và công tác của lực lượng Công an nhân dân nói riêng trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là cần bảo đảm mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu10.

Mục tiêu cao nhất mà Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn hướng tới là “lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người, đó là điều quan trọng nhất”. Đây là bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khẳng định tại Phiên toàn thể Diễn đàn cấp cao về cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngày 06/12/2021. Do đó, việc tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Cơ quan Cảnh sát quốc gia Nhật Bản có ý nghĩa ngày càng quan trọng.

Một là, tăng cường hoạt động trao đổi đoàn các cấp; trao đổi thông tin về tình hình quốc tế, khu vực và âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, các loại tội phạm mới nổi…

Hai là, tăng cường trao đổi chuyên gia, phối hợp đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực cán bộ ngang tầm nhiệm vụ của bối cảnh, tình hình mới, nhất là trong những lĩnh vực phía Nhật Bản có thế mạnh như: phòng, chống tội phạm lừa đảo trên không gian mạng, tội phạm rửa tiền, tội phạm về ma túy, tội phạm vi phạm bản quyền…

Ba là, kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn về pháp lý hiện có để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm giữa hai bên, nhất là việc sớm ký kết Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa hai nước.

Bốn là, tăng cường hợp tác về khoa học – công nghệ, chuyển giao công nghệ nhằm góp phần phát triển thành công nền công nghiệp an ninh Việt Nam lưỡng dụng, hiện đại đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Chú thích:
1. Việt Nam – Nhật Bản đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực chiến lược, công nghệ cao. https://baochinhphu.vn/viet-nam-nhat-ban-day-manh-hop-tac-trong-cac-linh-vuc-chien-luoc-cong-nghe-cao-102250428175909062.htm.
2. Irene Medina. Record-breaking 2.3 million foreign workers in Japan: a growing trend. https://www.workjapan.jp/jobseeker/blog/japan/record-breaking-2-3-million-foreign-workers-in-japan-a-growing-trend.
3. The mothers holding up Japan’s Vietnamese community. https://www.japantimes.co.jp/community/2025/07/21/issues/vietnamese-women-motherhood-careers.
4. Ari Hirayama and Hikaru Uchida. Follow the law, Vietnamese tell others newly settled in Japan. https://www.asahi.com/ajw/articles/15363669.
5. Arzaqia Luthfi Yani. Vietnamese in Japan: What They Do and Where They Live. https://www.tokhimo.com/post/vietnamese-in-japan-what-they-do-and-where-they-live-1.
6. Cộng đồng lao động Việt Nam tại Nhật Bản, những cây cầu kết nối quan hệ bền chặt giữa hai quốc gia, hai dân tộc. https://vneconomy.vn/cong-dong-lao-dong-viet-nam-tai-nhat-ban-nhung-cay-cau-ket-noi-quan-he-ben-chat-giua-hai-quoc-gia-hai-dan-toc.htm.
7. Số người Việt vi phạm pháp luật ở Nhật Bản gia tăng làm ảnh hưởng cộng đồng. https://vtv.vn/phap-luat/so-nguoi-viet-vi-pham-phap-luat-o-nhat-ban-gia-tang-lam-anh-huong-cong-dong-20240130203101954.htm.
8. Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam – Nhật Bản lên đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giớ. https://baochinhphu.vn/tuyen-bo-chung-ve-viec-nang-cap-quan-he-viet-nam-nhat-ban-len-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-vi-hoa-binh-va-thinh-vuong-tai-chau-a-va-tren-the-gioi-102231127222926484.htm.
9. Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên mới và những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/viet-nam-vung-buoc-tien-vao-ky-nguyen-moi-va-nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-su-nghiep-bao-ve-to-quoc-835332.
10. Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. https://www.tapchicongsan.org.vn/media story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie.