Giải pháp phòng tránh và ứng phó điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại 

ThS. Phạm Châu Giang
Tập đoàn VinaCapital

(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu chứng kiến làn sóng gia tăng mạnh mẽ của các biện pháp bảo hộ thương mại, trong đó có các biện pháp nhằm vào hàng xuất khẩu Việt Nam dưới danh nghĩa “điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại”. Đáng lưu ý, Việt Nam nằm trong danh sách “top đầu” các quốc gia bị điều tra chống lẩn tránh với 40 vụ, trong đó gần một nửa được khởi xướng chỉ trong 5 năm gần đây. Điều này cho thấy, những “lỗ hổng” trong việc ngăn chặn dòng chảy thương mại nước ngoài “vòng qua” Việt Nam để sang các nước khác vẫn đang diễn ra. Trước tình hình đó, việc xây dựng định hướng chính sách và triển khai các giải pháp phòng tránh cũng như ứng phó các cuộc điều tra này đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam là yêu cầu cấp thiết. 

Từ khoá: Phòng vệ thương mại; chống lẩn tránh; chống bán phá giá; chống trợ cấp; xuất khẩu; xuất xứ.

1. Đặt vấn đề

Tiếp nối những thành công của công cuộc toàn cầu hóa sâu rộng trong nửa cuối thế kỷ XX, hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI đã chứng kiến sự tự do thương mại ở mức cao nhất thông qua các hiệp ước khu vực, mở ra những thị trường rộng lớn mà trước đây chưa từng có. Đáng tiếc, đại dịch Covid-19 đã cho thấy, những điểm yếu trong chuỗi cung ứng toàn cầu – vốn phụ thuộc mạnh vào các nền kinh tế Đông Bắc Á, như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan cùng với chuỗi sản xuất thứ cấp của họ ở khu vực Đông Nam Á. Các nền kinh tế phát triển, như: Hoa Kỳ, EU, Anh, Canada, Australia nhận thấy, mức độ rủi ro của việc mất kiểm soát nguồn cung nguyên vật liệu có thể đẩy nền kinh tế của họ vào tình trạng lệ thuộc vào nước ngoài. Từ đó, họ bắt đầu theo đuổi chính sách “tái công nghiệp hóa”, “sản xuất tại chỗ” và “giảm phụ thuộc nhập khẩu” thông qua việc: trợ cấp sản xuất trong nước; kéo sản xuất/đầu tư về quốc gia của mình và tăng cường biện pháp phòng vệ thương mại, như: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ để bảo vệ ngành sản xuất nội địa. 

Các quốc gia từng cam kết thúc đẩy tự do hóa thương mại thông qua các hiệp định đa phương và song phương thì những năm gần đây lại chứng kiến một sự đảo chiều mạnh mẽ, biểu hiện rõ nét nhất là xu hướng gia tăng các biện pháp bảo hộ thương mại dưới nhiều hình thức, cả trực tiếp và gián tiếp. Điều này dẫn tới số lượng các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại gia tăng nhanh chóng trên thế giới và với cả Việt Nam từ năm 2020 với tần suất bị kiện gấp từ 2 – 3 lần giai đoạn trước đó. Cùng với các cuộc điều tra phòng vệ thương mại là điều tra lẩn tránh phòng vệ thương mại đối với các doanh nghiệp tìm cách thay đổi xuất xứ hoặc hàng hóa để từ đó tiếp tục xuất khẩu mà không phải nộp thuế. Cho đến nay, Việt Nam đã bị 40 cuộc điều tra lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại, khiến nhiều nước cho rằng, Việt Nam là tâm điểm của các hành vi lẩn tránh thuế và gian lận xuất xứ. Nếu điều này không được nghiên cứu để giải quyết dứt điểm sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu chiến lược phát triển xuất khẩu bền vững đã đặt ra. 

2. Bối cảnh và những vấn đề đặt ra trong phòng chống và ứng phó điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với Việt Nam

(1) Xu hướng dịch chuyển đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Sau chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và đại dịch Covid-19, dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang tái định hình mạnh mẽ. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nhưng cũng làm dấy lên lo ngại rằng, Việt Nam có thể bị sử dụng làm nước thứ ba để chuyển tải bất hợp pháp, gian lận xuất xứ và lẩn tránh thuế, thúc đẩy Hoa Kỳ và các nước gia tăng điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại. Các cơ quan điều tra nước ngoài nghi ngờ các cơ sở sản xuất FDI có thể chỉ là khâu lắp ráp cuối, với giá trị gia tăng nội địa thấp. Điều này buộc doanh nghiệp tại Việt Nam phải chứng minh quy trình sản xuất thực chất cũng như nguồn gốc nguyên liệu đầu vào. 

Những năm gần đây, FDI vào Việt Nam tăng trưởng nhanh và mạnh, đạt mức trung bình 20 tỷ USD mỗi năm, trong đó có sự dịch chuyển chuỗi cung ứng từ Trung Quốc vào Việt Nam, đặc biệt trong các ngành có nguy cơ bị áp thuế phòng vệ thương mại cao, như: pin mặt trời, thép, đồ gỗ, phương tiện vận tải… Trên thực tế, không phải mọi dự án FDI đều là dòng đầu tư lành mạnh. Có hiện tượng một số dự án đầu tư nhưng hoạt động chỉ dừng lại ở lắp ráp đơn giản, khiến Việt Nam dễ bị dínhlíu vào các vụ điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại khi các sản phẩm của các dự án này được xuất khẩu ra nước ngoài.

(2) Các nước thắt chặt biện pháp kiểm soát để chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại.

Trước làn sóng chuyển tải bất hợp pháp gia tăng, các nước, như: Hoa Kỳ, EU, Canada… đã siết chặt điều tra hành vi “lẩn tránh thuế”, mở rộng đối tượng và phạm vi áp thuế chống lẩn tránh. Các quốc gia này không chỉ điều tra theo lô hàng mà còn điều tra toàn bộ chuỗi cung ứng và năng lực sản xuất quốc gia, yêu cầu bằng chứng mạnh mẽ để chứng minh xuất xứ. Một số quy định mới yêu cầu doanh nghiệp chứng minh chuyển đổi bản chất sản phẩm, không chỉ dựa vào giấy chứng nhận xuất xứ (C/O). Những quy định này không được áp dụng theo một tiêu chuẩn thống nhất chung mà mang những đặc điểm riêng của từng nước nhập khẩu, thậm chí là giữa các cơ quan chức năng của cùng một nước nhập khẩu cũng có những cách đánh giá khác nhau. Hệ quả là khi phía nhập khẩu chủ động điều tra về nguồn gốc xuất xứ và bản chất, chất lượng của hàng hóa nhập khẩu, trong đó có hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam sẽ khiến cho Việt Nam rơi vào thế bị động. 

(3) Áp lực gia tăng từ các đối tác thương mại lớn.

Việt Nam hiện đang nằm trong số các đối tác thương mại hàng đầu của nhiều nền kinh tế lớn, như: Hoa Kỳ, EU, Hàn Quốc, Canada… Tuy nhiên, tỷ trọng xuất khẩu quá lớn và tình trạng xuất siêu vào một số thị trường khiến Việt Nam đối mặt với áp lực từ chính các nước nhập khẩu. Các đối tác này cũng gia tăng biện pháp kiểm soát gian lận thương mại, chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, yêu cầu Việt Nam chứng minh năng lực kiểm soát nội địa đối với các hành vi chuyển tải bất hợp pháp, lẩn tránh thuế và tăng tính minh bạch trong chuỗi cung ứng. Chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ và những yêu cầu của Hoa Kỳ với các đối tác, trong đó có Việt Nam, trong quá trình đàm phán các hiệp định thương mại đối ứng là biểu hiện rõ nét của xu hướng này. 

(4) Sự phụ thuộc vào nguồn cung nguyên vật liệu nhập khẩu.

Việt Nam hiện là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn hàng đầu trên thế giới với chỉ số kim ngạch xuất, nhập khẩu/GDP là 165% (năm 2024), trong đó xuất khẩu tương đương 85% GDP và nhập khẩu tương đương 80% GDP. Điều này cho thấy, Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Các ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam, như: dệt may, gỗ, thép, nhôm, giấy… chưa hoàn toàn tự chủ được nguồn nguyên liệu trong nước, mà phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt là từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc). Trong bối cảnh địa chính trị thế giới có nhiều biến, chuỗi cung ứng có rủi ro cao bị gián đoạn, doanh nghiệp có thể phải chuyển nguồn gấp, không kiểm soát được xuất xứ và dễ phát sinh rủi ro nếu sử dụng nguyên liệu từ các nước đang bị áp thuế phòng vệ thương mại hoặc nằm trong quy định về lao động cưỡng bức (như nguyên liệu dệt từ vùng Tân Cương, Trung Quốc)…

(5) Vai trò ngày càng lớn của các công ty đa quốc gia trong xuất khẩu.

Các tập đoàn đa quốc gia và xuyên quốc gia đang chiếm tỷ trọng xuất khẩu rất lớn của Việt Nam. Mặc dù các công ty này có năng lực tuân thủ tốt hơn doanh nghiệp nhỏ, nhưng sự hiện diện sâu của họ cũng đồng nghĩa Việt Nam phụ thuộc vào quyết định chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn này.Các tập đoàn đa quốc gia và xuyên quốc gia có thể chuyển một phần quy trình sản xuất từ nước bị áp thuế sang Việt Nam, khiến hàng Việt dễ bị nghi ngờ là lẩn tránh thuế. 

Trong nhiều vụ điều tra chống lẩn tránh phòng vệ thương mại, cơ quan điều tra nước ngoài thường phân tích mức độ “chuyển đổi đáng kể” và hàm lượng giá trị nội địa để xác định liệu hàng hóa có thực sự được sản xuất tại Việt Nam hay chỉ đơn thuần lắp ráp, gia công từ linh kiện của nước đang bị áp thuế. Hàm lượng giá trị gia tăng nội địa thấp là yếu tố khiến hàng xuất khẩu Việt Nam dễ bị coi là lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại. Do đó, Việt Nam cần có định hướng chiến lược để nâng cao giá trị gia tăng nội địa, giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu.

(6) Môi trường và các quy định liên quan đến phòng vệ thương mại, phòng chống và ứng phó điều tra chống lẩn tránh đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chưa thực sự đầy đủ và hoàn thiện.

Các văn bản pháp luật hiện hành như Nghị định số 31/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa, quy định liên quan chưa thực sự bao quát hết các hình thức gian lận mới, đặc biệt là trong bối cảnh thương mại số và chuyển đổi chuỗi cung ứng; không có tiêu chuẩn kiểm chứng năng lực sản xuất hoặc quy định bắt buộc về hồ sơ truy xuất nguồn gốc đối với các doanh nghiệp xin cấp C/O; còn thiếu quy định rõ ràng về kiểm soát đầu tư nước ngoài có nguy cơ lợi dụng để lẩn tránh thuế. 

Cơ chế điều tra, xử lý hành vi gian lận xuất xứ vẫn còn giao thoa giữa nhiều bộ, ngành. Ví dụ như: Bộ Công Thương chỉ có thẩm quyền kiểm tra đối với những lô hàng xuất khẩu có xin cấp C/O, trong khi Bộ Tài chính (Cục Hải quan) có thẩm quyền kiểm tra đối với toàn bộ các lô hàng xuất khẩu khai báo xuất xứ trên hệ thống hải quan. Trường hợp doanh nghiệp không xin cấp C/O, không khai báo xuất xứ Việt Nam trên hệ thống hải quan nhưng khai báo xuất xứ Việt Nam tại nước nhập khẩu sẽ không có căn cứ để các cơ quan chức năng Việt Nam tiến hành kiểm tra, xử lý. 

Cơ chế cấp C/O và xác minh xuất xứ hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa vào hồ sơ doanh nghiệp tự khai báo. Việc kiểm tra thực địa rất hạn chế, do thiếu nguồn lực và quy trình đánh giá rủi ro chưa tối ưu.

Tỷ lệ hậu kiểm trên tổng số C/O cấp ra thấp, khiến nhiều trường hợp gian lận chỉ bị phát hiện sau khi nước nhập khẩu đã mở điều tra hoặc có biện pháp áp thuế. Năng lực phân tích chuyên môn của cán bộ trong việc xác định “chuyển đổi cơ bản” theo quy tắc chuyển đổi mã HS hoặc hàm lượng giá trị còn yếu, đặc biệt với sản phẩm có chuỗi cung ứng phức tạp (điện tử, cơ khí chính xác). Thiếu hệ thống thu thập và đối chiếu dữ liệu về năng lực sản xuất thực tế, số lượng nguyên liệu nhập khẩu và sản lượng xuất khẩu, dẫn đến không thể phát hiện bất thường.

(7) Năng lực cảnh báo và phối hợp ứng phó còn hạn chế.

Hiện nay, Bộ Công Thương đã xây dựng và vận hành hệ thống cảnh báo sớm các mặt hàng có rủi ro cao bị điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, tuy nhiên, khả năng xác định cụ thể doanh nghiệp có rủi ro gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp còn yếu do thiếu cơ chế kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước để phát hiện chuỗi dấu hiệu nghi vấn. Dữ liệu hải quan chưa được chia sẻ tự động với các cơ quan quản lý nhà nước mà vẫn phải thực hiện trên cơ sở từng yêu cầu cụ thể. Do đó, cần nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm đa tầng, không chỉ cảnh báo về ngành hàng mà còn cảnh báo đối tượng doanh nghiệp cụ thể. 

3. Một số giải pháp

3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước

Một là, hoàn thiện khung khổ pháp lý. Cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 31/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa theo hướng tăng cường các quy định liên quan đến xuất xứ, hậu kiểm xuất xứ, bảo đảm chặt chẽ nhưng phù hợp với cam kết quốc tế. Cần quy định rõ về việc kiểm tra năng lực sản xuất thực tế của doanh nghiệp khi cấp C/O, đặc biệt với các doanh nghiệp có vốn FDI hoặc có tăng trưởng xuất khẩu đột biến.

Hai là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong cơ quan quản lý. Để bảo đảm đội ngũ cán bộ quản lý có đủ số lượng để xử lý khối lượng công việc yêu cầu, có năng lực chuyên sâu, cập nhật thực tiễn quốc tế, đủ khả năng hỗ trợ doanh nghiệp xử lý hiệu quả các vụ việc. 

Triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu và thường xuyên dành cho đội ngũ cán bộ cấp C/O tại Bộ Công Thương và các sở Công Thương địa phương  về phương pháp kiểm tra thực địa năng lực sản xuất, kỹ năng phát hiện dấu hiệu rủi ro, các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa…

Ba là, tăng cường hậu kiểm. Cần tăng cường hậu kiểm với các nhóm doanh nghiệp có kim ngạch tăng đột biến, doanh nghiệp mới xin cấp C/O lần đầu và doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu từ các nền kinh tế đang bị áp thuế (ví dụ: Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Indonesia…). Thông qua việc hậu kiểm, cơ quan quản lý nhà nước có thêm dữ liệu về tỷ lệ nội địa hóa của từng ngành, khả năng sản xuất thực chất của doanh nghiệp Việt và điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng. 

Bốn là, đào tạo, hướng dẫn cho doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng. Cần tổ chức các hội thảo chuyên đề giải thích chuyên sâu về quy định điều tra lẩn tránh, trốn thuế, quy tắc xuất xứ, quy trình trả lời điều tra, chuẩn bị hồ sơ chứng minh năng lực sản xuất. Đồng thời, cần hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng hệ thống sổ sách kế toán, hồ sơ sản xuất, chứng từ nhập khẩu, xuất khẩu theo đúng chuẩn mực quốc tế. Duy trì và nâng cao cổng thông tin điện tử về phòng vệ thương mại, tăng cường cảnh báo điều tra, hướng dẫn xử lý tình huống thực tế, các vụ việc điển hình. Phối hợp với hiệp hội ngành hàng xây dựng “Bộ quy tắc ứng xử thương mại”, khuyến khích doanh nghiệp cam kết tuân thủ và không tiếp tay cho hành vi lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại.

Năm là, xây dựng và tổ chức triển khai chiến lược gia tăng tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm. Đây là giải pháp lâu dài và bền vững nhằm phòng tránh hoặc nâng cao tỷ lệ ứng phó hiệu quả các vụ việc điều tra gian lận và chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại. Cụ thể là:

(1) Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước: Việt Nam cần tập trung thúc đẩy các nhóm ngành nguyên liệu đầu vào chiến lược cho xuất khẩu, ví dụ như vải/ sợi cho ngành dệt may, thép cán nóng cho ngành thép, bột giấy cho ngành sản xuất giấy… Để đạt được mục tiêu đó, Chính phủ cần có những chương trình khuyến khích đầu tư trong nước vào công nghiệp hỗ trợ (thông qua các quỹ đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển sản phẩm), phát triển các trung tâm công nghiệp hỗ trợ vùng (vải dệt, linh kiện cơ khí, chip bán dẫn…). 

(2) Thúc đẩy nội địa hóa trong chuỗi sản xuất thuộc lĩnh vực FDI: Chính phủ có thể yêu cầu hoặc khuyến khích doanh nghiệp FDI cam kết tỷ lệ nội địa hóa nhất định khi được cấp phép đầu tư và mở rộng danh mục nguyên liệu mua từ doanh nghiệp nội địa; đồng thời, có cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả nội địa hóa định kỳ. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong nước trở thành nhà cung ứng nguyên liệu đầu vào cho FDI thông qua đào tạo, nâng cao việc đáp ứng các tiêu chuẩn ngành và quốc tế, như: ISO, IATF 16949, RoHS, REACH, UL, FSC, GRS…, mở rộng các mô hình Kết nối cung – cầu công nghiệp hỗ trợ cấp vùng, ngành. 

Sáu là, thúc đẩy cơ chế hợp tác quốc tế trong xử lý điều tra lẩn tránh thuế và trốn thuế. Để bảo đảm Việt Nam là một mắt xích minh bạch và trách nhiệm trong chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam cần tăng cường tham gia các cơ chế chia sẻ thông tin thương mại khu vực và toàn cầu, chủ động cung cấp thông tin cho đối tác về chính sách kiểm soát FDI, truy xuất nguồn gốc, chứng minh Việt Nam không dung túng chuyển tải bất hợp pháp. Ngoài ra, trong một số vụ việc cụ thể, khi có nghi vấn đối với doanh nghiệp làm ăn chân chính của Việt Nam, có thể chủ động mời các đoàn thẩm tra của nước nhập khẩu sang thẩm định thực tế chuỗi sản xuất tại Việt Nam nhằm làm rõ nghi vấn nếu có.

Bảy là, tăng cường truyền thông và nâng cao nhận thức doanh nghiệp. Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác hướng dẫn cụ thể quy tắc xuất xứ theo từng FTA và từng mặt hàng, các quy định của nước nhập khẩu về lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, cách kê khai và hồ sơ cần chuẩn bị. Bên cạnh đó, tổ chức các hội thảo tập huấn theo ngành, theo vùng kết hợp trực tiếp và trực tuyến, có sự tham gia của chuyên gia pháp lý – thương mại quốc tế. Có thể phối hợp với hiệp hội ngành hàng để xây dựng bộ quy tắc ứng xử và giám sát nội bộ trong ngành, công khai danh sách doanh nghiệp bị xử lý vi phạm để răn đe và minh bạch hóa môi trường kinh doanh.

3.2. Đối với doanh nghiệp

Một là, nghiên cứu quy định của các thị trường nhập khẩu mục tiêu. Doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt và cập nhật thường xuyên các quy định pháp lý, quy tắc xuất xứ, thủ tục chứng nhận, kiểm tra sau thông quan… của từng thị trường nhập khẩu. Mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật và cơ chế phòng vệ thương mại riêng biệt, thay đổi liên tục. Việc hiểu rõ và tuân thủ đầy đủ các yêu cầu này là điều kiện tiên quyết để tránh bị điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ. Doanh nghiệp cần thiết lập bộ phận pháp chế quốc tế hoặc hợp tác với các đơn vị tư vấn luật quốc tế.

Hai là, theo dõi thông tin cảnh báo sớm. Doanh nghiệp cần thường xuyên theo dõi thông tin cảnh báo sớm về các vụ điều tra, rủi ro lẩn tránh thuế và gian lận thương mại từ các cơ quan trong và ngoài nước. Việc nắm bắt sớm thông tin giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh hành vi xuất khẩu, chuẩn bị sẵn hồ sơ sổ sách và nguồn lực để xử lý. Doanh nghiệp có thể thực hiện bằng cách đăng ký nhận tin cảnh báo từ Bộ Công Thương, thiết lập kênh nội bộ phân tích thị trường và rủi ro thương mại.

Ba là, quản trị chuỗi cung ứng, chủ động nguyên liệu, truy xuất nguồn gốc. Trong bối cảnh các biện pháp kiểm tra nguồn gốc ngày càng nghiêm ngặt, doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi cung ứng minh bạch và kiểm soát được từng mắt xích. Doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm nguồn nguyên liệu trong nước hoặc từ các nước không bị áp thuế; đầu tư công nghệ truy xuất (QR code, blockchain, phần mềm ERP…) để ghi nhận toàn bộ hành trình sản xuất; xây dựng hồ sơ nguồn gốc nguyên vật liệu và chuỗi sản xuất sẵn sàng cung cấp khi bị yêu cầu điều tra.

Bốn là, tuân thủ đầy đủ quy định và hợp tác với cơ quan điều tra. Khi bị yêu cầu cung cấp thông tin, doanh nghiệp cần phản hồi đầy đủ, đúng hạn, minh bạch và trung thực với cơ quan điều tra nước nhập khẩu; cần bổ nhiệm đội ngũ nhân sự chuyên trách hoặc thuê tư vấn pháp lý quốc tế để đảm bảo thống nhất trong lập luận và trình bày dữ liệu; tránh tình trạng “không hợp tác”, không trả lời câu hỏi hoặc cung cấp thiếu thông tin, vì đây là cơ sở để cơ quan điều tra áp dụng “các dữ liệu sẵn có bất lợi” (AFA), dẫn đến mức thuế rất cao.

Năm là, phối hợp với Hiệp hội ngành hàng trong xử lýTrong quá trình xử lý, doanh nghiệp cần phối hợp với Hiệp hội để cùng đề ra phương án xử lý chung của ngành, kết hợp thuê luật sư tư vấn nếu cần thiết… Trong quá trình trả lời câu hỏi, có thể sử dụng các dữ liệu/báo cáo ngành, phối hợp với hiệp hội mô tả thực tế sản xuất tại Việt Nam để chứng minh sự chuyển đổi đáng kể sản phẩm tại Việt Nam. 

Sáu là, tìm kiếm cơ hội rà soát lại mức thuế. Không phải trong vụ việc điều tra nào, kết quả đạt được cũng tích cực. Do đó, doanh nghiệp cần chuẩn bị trong trường hợp bị kết luận có sự lẩn tránh hoặc không hợp tác. Quy định về điều tra chống lẩn tránh của các nước cho phép điều chỉnh lại mức thuế chống lẩn tránh thông qua các cuộc rà soát thuế định kỳ/hằng năm. Doanh nghiệp cần nắm rõ quy định rà soát để đề nghị được rà soát và tham gia hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu để được điều chỉnh mức thuế hoặc được tham gia cơ chế tự xác nhận.

4. Kết luận

Các biện pháp phòng vệ thương mại, đặc biệt là điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại không còn là rào cản tạm thời mà đã trở thành công cụ chiến lược của nhiều quốc gia để điều tiết dòng chảy thương mại toàn cầu. Trong bối cảnh đó, việc chủ động nâng cao năng lực ứng phó, hoàn thiện hệ thống pháp lý quốc gia, kiểm soát chặt chẽ hoạt động cấp C/O, quản lý FDI và truy xuất chuỗi cung ứng là nhiệm vụ cần thiết. Về phía doanh nghiệp, việc tuân thủ nghiêm túc quy định xuất xứ, phối hợp minh bạch với cơ quan điều tra và đầu tư xây dựng hồ sơ năng lực sản xuất nội địa không chỉ là điều kiện để tránh rủi ro pháp lý mà còn là nền tảng để khẳng định thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế. Sự phối hợp hiệu quả giữa Nhà nước, hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp là chìa khóa để Việt Nam không chỉ ứng phó hiệu quả với các vụ điều tra mà còn vươn lên thành một mắt xích uy tín, trách nhiệm và bền vững trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2019). Nghị quyết số 119/NQ-CP ngày 31/12/2019 về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp.

2. Nguyễn Thị Thu Hằng (2023). Các biện pháp phòng vệ thương mại và chiến lược ứng phó của Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ gia tăng. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh châu Á, số 5.

3. Thủ tướng Chính phủ (2019). Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04/7/2019 phê duyệt Đề án tăng cường quản lý chống lẩn tránh và gian lận xuất xứ. 

4. Trần Quốc Toản (2022). Phân tích xu hướng chuyển tải bất hợp pháp và kinh nghiệm kiểm soát từ một số quốc gia nhập khẩu chính. Tạp chí Công Thương, số 9.

5. Trung tâm WTO và Hội nhập (2023, 2024). Báo cáo rà soát pháp luật và đề xuất cải thiện cơ chế phòng vệ thương mại của Việt Nam.

6. Baker McKenzie Vietnam (2022). Legal alert: Anti-circumvention investigations and origin verification in Vietnam. Internal client briefing.

7. USTR (Office of the United States Trade Representative) (2022). Report on Foreign Trade Barriers 2022. Retrieved from https://ustr.gov

8. European Commission (2023). Trade defence instruments: Statistics and reports. Retrieved from https://trade.ec.europa.eu

9. World Trade Organization (WTO) (2023). WTO Statistics Database – Anti-dumping, Countervailing and Safeguard Measures. Retrieved from https://www.wto.org

10. Vietnam Briefing (2023). Vietnam’s Role in Global Supply Chains: Risks and Opportunities.Retrieved from https://www.vietnam-briefing.com