TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản
(Quanlynhanuoc.vn) – Thế giới đang hướng tới các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) của Liên hiệp quốc hướng đến năm 2030, trong đó giáo dục được coi là nền tảng cốt lõi. Đặc biệt, SDG4 đề ra mục tiêu “bảo đảm một nền giáo dục hòa nhập, bình đẳng, chất lượng và cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người”. Tại Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành định hướng quan trọng và giáo dục được xem là chìa khóa để thực hiện thành công các mục tiêu này. Giáo dục chất lượng, công bằng, thúc đẩy học tập suốt đời sẽ tạo ra nguồn nhân lực có tri thức, kỹ năng để vừa phát triển kinh tế, vừa gìn giữ môi trường và xây dựng xã hội tiến bộ.
Từ khóa: Quản lý nhà nước về giáo dục, động lực phát triển, phát triển bền vững.
1. Đặt vấn đề
Để giáo dục thực sự trở thành động lực phát triển bền vững, vai trò quản lý nhà nước cần được tái định vị cho phù hợp với bối cảnh thời đại. Trong kỷ nguyên số và hội nhập, Nhà nước không thể chỉ dừng ở việc ban hành quy định và kiểm soát hành chính mà phải chuyển sang vai trò kiến tạo, chủ động xây dựng chiến lược, tạo môi trường thuận lợi và huy động các nguồn lực xã hội cùng tham gia phát triển giáo dục một cách hiệu quả, lâu dài. Nhà nước với vai trò kiến tạo sẽ dẫn dắt mọi thành phần xã hội chung tay vì mục tiêu giáo dục bền vững.
2. Phát triển bền vững và những đòi hỏi đối với giáo dục
Giáo dục vì sự phát triển bền vững là định hướng giáo dục nhằm trang bị cho người học ở mọi lứa tuổi kiến thức, kỹ năng, giá trị và thái độ cần thiết để giải quyết những thách thức đan xen của nhân loại về môi trường, kinh tế và xã hội. Theo UNESCO, giáo dục vì phát triển bền vững giúp người học đối phó với các vấn đề toàn cầu, như: biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học, sử dụng tài nguyên thiếu bền vững, bất bình đẳng…. Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ với định hướng này. Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều chính sách nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo bền vững, từ cải cách giáo dục phổ thông, đổi mới chương trình giảng dạy, xây dựng các trường đại học tiên tiến đạt chuẩn khu vực, quốc tế, cho đến hỗ trợ giáo dục cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa và tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục. Giáo dục Việt Nam đang hướng tới mục tiêu không chỉ truyền thụ kiến thức mà còn hình thành ở thế hệ trẻ những giá trị sống, ý thức trách nhiệm với cộng đồng và kỹ năng hành động để phát triển đất nước bền vững, hài hòa với môi trường.
Phát triển bền vững đòi hỏi nền giáo dục phát triển chất lượng cao và toàn diện, công bằng. Về chất lượng, trong nền kinh tế tri thức, giáo dục cần đào tạo những người học có năng lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, có trình độ chuyên môn vững vàng và kỹ năng sáng tạo, thích ứng. Giáo dục phải bảo đảm tính bao trùm, công bằng xã hội, mọi người dân đều được tiếp cận cơ hội học tập suốt đời. Nhà nước cần định hướng chính sách để hệ thống giáo dục phục vụ đồng thời cả tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Chẳng hạn, Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 của Việt Nam được thiết kế mới với mục tiêu phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học, không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn chú trọng tích hợp giáo dục STEM, rèn luyện kỹ năng mềm thiết yếu, như: tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, làm việc nhóm… giúp học sinh tự tin trở thành công dân toàn cầu trong tương lai. Chính sách giáo dục cũng hướng tới sự công bằng, toàn diện, Việt Nam đã phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với tỷ lệ gần 99% trẻ em trong độ tuổi đến trường, tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, tạo nền tảng bình đẳng ngay từ đầu đời. Những định hướng này bảo đảm giáo dục vừa đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, vừa thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Việt Nam đã lồng ghép các mục tiêu giáo dục vào Chiến lược phát triển bền vững quốc gia. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định giáo dục Việt Nam phải phát triển con người hiện đại, toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Theo Chiến lược này, hệ thống giáo dục sẽ được xây dựng theo hướng mở, linh hoạt, bảo đảm công bằng trong tiếp cận, chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phấn đấu đến 2030 giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á. Các mục tiêu cụ thể cũng được đề ra như: hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non, nâng cao tỷ lệ học sinh phổ thông học 2 buổi/ngày lên 99,5%, xóa bỏ chênh lệch giới và hỗ trợ tối đa nhóm yếu thế trong tiếp cận giáo dục. Những định hướng này thể hiện quyết tâm của nhà nước trong việc đưa giáo dục trở thành động lực then chốt cho phát triển bền vững của đất nước.
Thẳng thắn nhìn nhận, nền giáo dục nước ta hiện vẫn còn một số hạn chế cản trở mục tiêu phát triển bền vững. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao đồng đều. Có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng miền: giáo dục khu vực nông thôn, miền núi còn thua kém thành thị về chất lượng giáo viên, cơ sở hạ tầng giáo dục…. Nhiều nơi vùng sâu, vùng xa vẫn thiếu trường lớp kiên cố, thiếu thiết bị dạy học và giáo viên có trình độ, dẫn đến khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa các vùng ngày càng rõ nét.
Giáo dục còn nặng về lý thuyết, chưa chú trọng đúng mức đến kỹ năng mềm và giáo dục môi trường. Có 83% sinh viên tốt nghiệp bị đánh giá là thiếu kỹ năng mềm và 37% sinh viên không tìm được việc làm do không đáp ứng yêu cầu về kỹ năng mềm1. Con số này cho thấy, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, tư duy sáng tạo… chưa được rèn luyện hiệu quả trong nhà trường. Tương tự, giáo dục về môi trường và phát triển bền vững mới chỉ bắt đầu được tích hợp vào chương trình, cần thời gian để phát huy tác dụng. Việc đổi mới chương trình, phương pháp dạy học còn chưa theo kịp đòi hỏi của thời đại số. Những hạn chế này đặt ra yêu cầu cấp bách phải tái định vị vai trò quản lý nhà nước (QLNN), đổi mới quản lý và đầu tư cho giáo dục nhằm khắc phục điểm yếu, bảo đảm giáo dục Việt Nam phát triển đúng hướng.
3. Tái định vị vai trò quản lý nhà nước trong giáo dục, từ “kiểm soát” sang “kiến tạo”
Trong bối cảnh mới, mô hình quản lý giáo dục truyền thống theo kiểu hành chính mệnh lệnh, Nhà nước kiểm soát, không còn phù hợp. Thay vào đó, Việt Nam đang hướng tới mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển. Điều này có nghĩa là, cơ quan QLNN về giáo dục chuyển trọng tâm từ việc can thiệp sâu vào hoạt động hằng ngày của cơ sở giáo dục sang việc kiến tạo môi trường và định hướng chiến lược. Nhà nước kiến tạo có chức năng chủ yếu là xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển đúng đắn, tạo môi trường và điều kiện cho các chủ thể giáo dục và các thành phần xã hội phát huy tối đa tiềm năng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo và sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh, thành phố sẽ tập trung vào hoạch định chính sách vĩ mô, ban hành khung pháp lý thông thoáng, thiết lập các tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng và giám sát việc thực thi. Nhà nước sẽ giảm bớt những can thiệp vi mô mang tính mệnh lệnh hành chính vào nội bộ từng trường học. Đây là sự thay đổi tư duy căn bản trong mối quan hệ giữa Nhà nước và các cơ sở giáo dục, từ “cầm tay chỉ việc” sang “trao quyền và hỗ trợ”. Với vai trò kiến tạo, Nhà nước trở thành người dẫn dắt định hướng, tạo hành lang để mọi cơ sở giáo dục phát huy tính chủ động, sáng tạo, thúc đẩy cả hệ thống phát triển năng động và bền vững hơn.
(1) Phân định quản lý nhà nước và quản trị nhà trường.
Thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đang phân định rõ chức năng QLNN với quản trị của cơ sở giáo dục. Điều này thể hiện qua việc đẩy mạnh phân cấp, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường học, nâng cao trách nhiệm giải trình của họ trước xã hội.
Nghị quyết số 29-NQ/TW nhấn mạnh, cơ quan QLNN làm đúng vai trò quản lý vĩ mô, còn các cơ sở giáo dục được giao quyền tự chủ về chuyên môn, tổ chức, nhân sự và tài chính trong khuôn khổ pháp luật. Cụ thể, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các sở chỉ tập trung xây dựng chương trình khung, ban hành chuẩn đầu ra, tổ chức kiểm định chất lượng…; trong khi từng trường được chủ động xây dựng chương trình giảng dạy chi tiết phù hợp thực tiễn, tuyển dụng và sử dụng nhân sự, huy động và quản lý nguồn lực tài chính theo nhu cầu.
Cùng với tự chủ, các trường phải tự chịu trách nhiệm về chất lượng và hiệu quả giáo dục của mình trước cơ quan chủ quản và xã hội. Việc giao quyền và phân cấp này được kỳ vọng sẽ khuyến khích sự năng động, sáng tạo ở cấp cơ sở, giúp mỗi nhà trường trở thành một “chủ thể tự quản” tích cực đóng góp vào mục tiêu giáo dục chung. Để hỗ trợ quản trị nhà trường, vai trò của Hội đồng trường tại các cơ sở công lập cũng được đề cao nhằm tăng tính dân chủ và giám sát trong nội bộ nhà trường. Tái định vị vai trò QLNN đòi hỏi chuyển từ mô hình “thống quản” sang mô hình “đồng quản”, Nhà nước và nhà trường chia sẻ trách nhiệm quản lý giáo dục, trong đó, Nhà nước tạo hành lang, còn nhà trường chủ động vận hành trong hành lang đó.
(2) Nhà nước định hướng và bảo đảm chất lượng.
Ở vai trò mới, QLNN về giáo dục giống như người “nhạc trưởng” điều phối hệ thống. Nhà nước giữ quyền định ra định hướng phát triển thông qua việc ban hành chiến lược, quy hoạch mạng lưới trường lớp, chương trình giáo dục quốc gia và các chuẩn chất lượng chung. Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể làm nền tảng chung, kèm theo hệ thống các bộ chuẩn về kỹ năng, phẩm chất học sinh cần đạt.
Trên cơ sở định hướng đó, các cơ sở giáo dục triển khai nội dung dạy học phù hợp nhưng không được thấp hơn chuẩn quốc gia. Cùng với định hướng, Nhà nước thiết lập bộ tiêu chuẩn chất lượng và cơ chế kiểm định độc lập để theo dõi, đánh giá các cơ sở giáo dục trên phạm vi toàn quốc. Việc kiểm định chất lượng giáo dục đang ngày càng hoàn thiện, tạo thước đo chung về mức độ đạt mục tiêu giáo dục bền vững. Vai trò của Nhà nước thể hiện ở chức năng thanh tra, kiểm tra minh bạch, khách quan. Thay vì can thiệp vi mô, Nhà nước tăng cường giám sát vĩ mô, định kỳ thanh tra các trường về thực hiện chương trình, đạo đức nhà giáo, tài chính công khai… theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch. Nhà nước kịp thời phát hiện và chấn chỉnh sai phạm, hỗ trợ các cơ sở khắc phục hạn chế để đáp ứng chuẩn chất lượng đề ra. Có thể nói, Nhà nước chuyển từ vai “người cầm lái” trực tiếp sang vai “kiến trúc sư trưởng” thiết kế hệ thống và bảo đảm các thành phần trong hệ thống hoạt động đúng hướng, đạt chất lượng.
(3) Nhà nước kiến tạo môi trường hợp tác.
Để giáo dục thực sự trở thành động lực phát triển bền vững, cần có sự chung tay của toàn xã hội. Nhà nước với vai trò kiến tạo sẽ chú trọng huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia vào phát triển giáo dục; ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức và người dân đầu tư cho giáo dục. Cơ chế ưu đãi thuế cho doanh nghiệp tài trợ cơ sở vật chất trường học, chính sách tín dụng ưu đãi cho trường ngoài công lập, kêu gọi hợp tác công – tư (PPP) trong xây dựng trường học, ký kết chương trình phối hợp với các tổ chức quốc tế để tranh thủ nguồn lực về tài chính và tri thức…
Nghị quyết số 29-NQ/TW đã chỉ rõ: “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển Giáo dục và Đào tạo, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục”, tức là tăng cường thu hút các nguồn lực khác ngoài ngân sách nhà nước. Những năm qua, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục luôn được ưu tiên ở mức 20% tổng chi ngân sách và nguồn lực xã hội hóa cũng đóng góp quan trọng. Nhà nước kiến tạo còn thể hiện ở vai trò kết nối các bên liên quan trong giáo dục, kết nối nhà trường với gia đình (thông qua các phong trào phụ huynh tham gia quản lý, hỗ trợ nhà trường), kết nối giáo dục với doanh nghiệp (qua hình thức doanh nghiệp đặt hàng đào tạo, tài trợ học bổng, cùng xây dựng chương trình đào tạo), kết nối với cộng đồng địa phương (huy động trí thức, cựu giáo chức tham gia giảng dạy hướng nghiệp, giáo dục kỹ năng sống…).
(4) Chính phủ điện tử và quản lý thông minh
Tái định vị vai trò QLNN trong giáo dục không chỉ là đổi mới chức năng nhiệm vụ mà còn đổi mới cách thức thực hiện. Trong kỷ nguyên số, Nhà nước đang triển khai mạnh mẽ Chính phủ điện tử và chuyển đổi số trong ngành Giáo dục, hướng tới quản lý thông minh. Việc ứng dụng công nghệ số giúp Nhà nước quản lý giáo dục một cách hiệu quả, minh bạch và phục vụ tốt hơn nhu cầu người dân. Hệ thống cơ sở dữ liệu ngành Giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng từ năm 2018, tập hợp dữ liệu của toàn bộ 53.000 trường mầm non, phổ thông, gần 24 triệu học sinh và 1,4 triệu giáo viên trong cả nước, được cập nhật liên tục. Nhờ có dữ liệu lớn, các cấp quản lý đã có cơ sở để ra quyết định nhanh và chính xác hơn, dữ liệu thời gian thực cho phép bộ và sở ngành theo dõi sát các chỉ số giáo dục ở từng địa phương, từ đó phân bổ nguồn lực hợp lý (điều chuyển giáo viên từ nơi thừa sang nơi thiếu, ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất cho vùng khó khăn, điều chỉnh quy hoạch mạng lưới trường lớp…). Nhà nước cũng phát triển các nền tảng quản lý số, cổng thông tin tuyển sinh trực tuyến, hệ thống quản lý học tập (LMS) quốc gia, phần mềm quản lý trường học…
Hiện nay, 100% các trường đại học đã có cổng thông tin điện tử tích hợp, triển khai phần mềm quản lý đào tạo, quản lý nhân sự. Việc số hóa quy trình quản lý giúp giảm thủ tục hành chính, tăng tính minh bạch. Nhà nước tương tác gần hơn với người dân, lấy ý kiến phản hồi của giáo viên, phụ huynh về chính sách qua môi trường mạng, cung cấp dịch vụ công về giáo dục mọi lúc mọi nơi.
4. Quản lý nhà nước thúc đẩy giáo dục bền vững
4.1. Lồng ghép phát triển bền vững vào chính sách giáo dục
Một trong những cách tái định vị vai trò QLNN rõ nét nhất là Nhà nước chủ động đưa các mục tiêu phát triển bền vững vào mọi kế hoạch, chính sách giáo dục và đào tạo. Từ cấp chiến lược đến cấp chương trình, yếu tố phát triển bền vững phải được xem xét tích hợp. Thực tế những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành tích hợp nội dung phát triển bền vững vào chương trình giáo dục. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 là ví dụ tiêu biểu, ngay trong quan điểm thiết kế chương trình đã nhấn mạnh thúc đẩy giáo dục vì sự phát triển bền vững. Các môn học mới được xây dựng với nội dung tích hợp về môi trường, biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xanh và tiến bộ xã hội.
Song song với giáo dục phổ thông, trong đào tạo nghề và giáo dục đại học, Nhà nước cũng định hướng mở các ngành học gắn với phát triển bền vững. Nhiều chương trình đào tạo đã và đang được cập nhật, hiện đại hóa theo hướng “xanh hóa”, như đào tạo về năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học nông nghiệp hữu cơ, kỹ thuật xây dựng xanh, quản lý tài nguyên và môi trường… Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng cũng được quy hoạch lại để nâng cao chất lượng, hội nhập quốc tế và tập trung đào tạo những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn nhằm phục vụ chiến lược tăng trưởng xanh và chuyển đổi số quốc gia.
4.2. Bảo đảm tính liên tục và dài hạn của chính sách
Phát triển bền vững đòi hỏi tầm nhìn dài hạn và sự kiên định trong thực hiện. Do đó, QLNN về giáo dục phải bảo đảm các chính sách có tính liên tục, ổn định và nhất quán. Những thay đổi lớn như cải cách chương trình, đổi mới thi cử cần có lộ trình rõ ràng, tránh tình trạng thay đổi gây xáo trộn và giảm niềm tin của xã hội. Nhà nước kiến tạo sẽ chú trọng xây dựng chiến lược giáo dục dài hạn đến năm 2030, 2045 và bám sát thực hiện. Khi chính sách ổn định, nhất quán, các trường học, giáo viên và phụ huynh sẽ yên tâm tập trung nâng cao chất lượng thay vì lo đối phó sự thay đổi liên tục.
QLNN cũng cần có cơ chế theo dõi, đánh giá định kỳ việc thực thi các mục tiêu giáo dục bền vững; thiết lập các bộ chỉ số đo lường (về tỷ lệ học sinh được giáo dục kỹ năng sống, tỷ lệ trường học “xanh – sạch – đẹp”, mức độ hài lòng của người học…) và tiến hành đánh giá hằng năm. Dựa trên kết quả đó, chính sách được điều chỉnh kịp thời, bổ sung nguồn lực cho những lĩnh vực còn yếu, bảo đảm tất cả các mục tiêu phát triển bền vững về giáo dục đều tiến triển đúng hướng. Sự kiên định về chiến lược kết hợp với linh hoạt điều chỉnh qua giám sát sẽ giúp nền giáo dục phát triển vững chắc, tránh rơi vào tình trạng “sớm nắng chiều mưa”.
4.3. Nhấn mạnh giáo dục toàn diện
Một yêu cầu cốt lõi để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển bền vững là giáo dục phải toàn diện, hài hòa đức – trí – thể – mỹ. Nhà nước giữ vai trò định hướng mục tiêu giáo dục theo hướng này. Trong kỷ nguyên mới, công dân không chỉ cần kiến thức chuyên môn mà còn phải có kỹ năng mềm, phẩm chất đạo đức và ý thức xã hội. QLNN cần chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu truyền thụ kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất người học. Các kỹ năng của thế kỷ XXI, như: tư duy phản biện, sáng tạo, hợp tác, kỹ năng số… được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào chương trình từ phổ thông đến đại học. Giáo dục về nhân cách, đạo đức, lối sống, văn hóa được chú trọng.
Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới chương trình theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức công dân…. Trên cơ sở đó, Nhà nước ban hành các chuẩn đầu ra về phẩm chất, kỹ năng cho từng bậc học. Vai trò QLNN ở đây là bảo đảm khung chương trình và chuẩn mực phù hợp để mỗi nhà trường triển khai giáo dục toàn diện; đầu tư cho các hoạt động ngoại khóa, phong trào thi đua rèn luyện thể chất, văn nghệ, giáo dục kỹ năng sống… tại trường học, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tối đa tiềm năng.
4.4. Tăng cường công bằng giáo dục và học tập cho mọi người
Phát triển bền vững không thể tách rời yếu tố công bằng xã hội, do đó QLNN về giáo dục phải đặc biệt quan tâm đến giáo dục hòa nhập, giáo dục cho nhóm yếu thế. Việc tái định vị vai trò Nhà nước bao hàm việc thiết kế các chính sách hỗ trợ để mọi người dân đều có cơ hội học tập suốt đời.
Thứ nhất, Nhà nước tiếp tục ưu tiên nguồn lực cho các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, hải đảo… bằng cách đầu tư xây trường lớp bán trú, đưa giáo viên giỏi về vùng sâu, hỗ trợ thiết bị học tập. Đây là thực hiện nguyên tắc “ưu tiên đầu tư cho vùng đặc biệt khó khăn”.
Thứ hai, chính sách giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật được đẩy mạnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quy định về giáo dục chuyên biệt và hòa nhập, hỗ trợ dụng cụ học tập, đào tạo giáo viên, đặc biệt nhằm bảo đảm trẻ khuyết tật được đến trường và học tập phù hợp khả năng.
Thứ ba, Nhà nước chú trọng bình đẳng giới trong giáo dục, phấn đấu xóa bỏ mọi rào cản để cả trẻ em gái và trai đều được học tập ở mọi cấp. Mục tiêu đến 2030 của Việt Nam là xóa bỏ bất bình đẳng giới trong giáo dục, bảo đảm tiếp cận giáo dục bình đẳng ở mọi cấp cho các nhóm yếu thế (người khuyết tật, dân tộc thiểu số, trẻ em hoàn cảnh khó khăn.
Thứ tư, triển khai mạnh mẽ các chương trình giáo dục cộng đồng: xóa mù chữ cho người lớn, giáo dục kỹ năng cho lao động nông thôn, mở rộng các trung tâm học tập cộng đồng để người dân học tập suốt đời. Khi mọi người dân, dù hoàn cảnh nào, cũng được tiếp cận giáo dục chất lượng, thì nguồn nhân lực của đất nước mới được phát triển đồng đều, xã hội mới thu hẹp chênh lệch, là nền tảng vững chắc để phát triển bền vững từ gốc rễ.
5. Quản lý nhà nước tạo động lực phát triển
Đảng và Nhà nước luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò động lực then chốt để phát triển đất nước. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển nên phải được ưu tiên đi trước trong các chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Việc tái định vị vai trò QLNN trong giáo dục chính là nhằm hiện thực hóa quan điểm lớn đó trong bối cảnh mới. Nhà nước kiến tạo sẽ bảo đảm giáo dục được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển quốc gia, tức là mọi chính sách kinh tế, xã hội đều tính đến yếu tố giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Khi Nhà nước coi trọng giáo dục một cách thực chất (thể hiện qua ưu tiên ngân sách, cải cách thể chế, huy động toàn xã hội tham gia giáo dục), giáo dục sẽ phát huy tối đa vai trò động lực trực tiếp cho phát triển bền vững. Cụ thể, một nền giáo dục mở, năng động và chất lượng cao sẽ cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho nền kinh tế, góp phần quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Giáo dục tốt giúp giảm thiểu các vấn đề xã hội như tội phạm, đói nghèo, nhờ đó giảm áp lực lên hệ thống an sinh và tạo môi trường xã hội ổn định để phát triển. Có thể nói, trong mối quan hệ hữu cơ, giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Nhà nước nắm vai trò “bà đỡ” cho giáo dục phát triển và đến lượt nó, một nền giáo dục phát triển sẽ trở thành động lực mạnh mẽ đưa đất nước tiến lên thịnh vượng một cách bền vững.
5.1. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong giáo dục
Lợi ích lớn khi quản lý nhà nước chuyển sang mô hình linh hoạt, thông thoáng là tạo động lực đổi mới sáng tạo mạnh mẽ trong toàn ngành Giáo dục. Khi các trường học và nhà giáo được trao quyền tự chủ và được khuyến khích sáng tạo, họ sẽ chủ động tìm tòi cải tiến phương pháp dạy học, chương trình, quản trị… để nâng cao chất lượng. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giáo dục dần hình thành với sự tham gia của nhiều thành phần: các startup công nghệ giáo dục (EdTech) cung cấp giải pháp học tập thông minh, các nhóm nghiên cứu trong trường đại học tạo ra sáng kiến khoa học giáo dục mới, giáo viên phổ thông thi đua sáng tạo đồ dùng dạy học và phương pháp sư phạm hiện đại.
Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ và khuyến khích bằng cơ chế, chính sách: ví dụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức các cuộc thi sáng tạo khoa học kỹ thuật cho học sinh, thi đổi mới phương pháp giảng dạy cho giáo viên; Nhà nước bảo trợ các vườn ươm khởi nghiệp trong trường đại học, hỗ trợ kinh phí cho các đề tài nghiên cứu giáo dục ứng dụng; xây dựng hành lang pháp lý công nhận các mô hình giáo dục mới để nhân rộng. Chiến lược giáo dục tập trung phát triển năng lực đổi mới và sáng tạo của người học như một mục tiêu trọng yếu. Thế hệ học sinh, sinh viên được khuyến khích dám nghĩ dám làm, nuôi dưỡng tinh thần khởi nghiệp sáng tạo ngay từ ghế nhà trường.
5.2. Liên kết giáo dục – thị trường lao động bền vững
QLNN là kết nối giáo dục với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, định hướng giáo dục phục vụ thị trường lao động bền vững. Nhà nước phải dự báo được xu hướng nhân lực trong tương lai và có kế hoạch đặt hàng đào tạo cho các cơ sở giáo dục. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã xác định nhiều lĩnh vực kinh tế trụ cột cho phát triển bền vững, như: năng lượng tái tạo, kinh tế số, công nghệ cao, y tế cộng đồng, nông nghiệp hữu cơ…
Vai trò QLNN là chỉ đạo hệ thống giáo dục ưu tiên nguồn lực đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực đó. Thông qua các chiến lược ngành và địa phương, Nhà nước đề ra chỉ tiêu nhân lực, từ đó Bộ Giáo dục và Đào tạo phân bổ chỉ tiêu đào tạo đại học, cao đẳng mở ngành nghề mới phù hợp. Nhà nước khuyến khích mô hình hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp để gắn đào tạo với việc làm. Nhiều trường nghề và cao đẳng tại Việt Nam đã liên kết với doanh nghiệp theo mô hình “đào tạo kép” (học lý thuyết tại trường kết hợp thực hành dài hạn tại doanh nghiệp).
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mô hình co-op (vừa học vừa làm) như ở Đức, Pháp, Canada giúp sinh viên tốt nghiệp có kỹ năng sát nhu cầu thực tiễn và dễ dàng có việc làm ổn định. QLNN có thể học hỏi và nhân rộng mô hình này bằng cách ban hành khung pháp lý rõ ràng cho thực tập sinh, khuyến khích doanh nghiệp tiếp nhận sinh viên thực tập có hưởng lương, hỗ trợ kinh phí cho các trường triển khai chương trình hợp tác. Nhà nước cũng chú trọng dự báo và điều tiết cung – cầu nhân lực, xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, kết nối các bộ ngành để cân đối ngành nghề đào tạo với nhu cầu xã hội. Khi giáo dục đi đúng hướng thị trường lao động, sinh viên ra trường có kiến thức kỹ năng phù hợp thì tỷ lệ thất nghiệp có bằng đại học sẽ giảm, chất lượng việc làm tăng, đóng góp tích cực vào ổn định xã hội.
Việt Nam đang triển khai chương trình đào tạo nhân lực cho chuyển đổi số quốc gia, hàng vạn chuyên gia về trí tuệ nhân tạo (AI), an ninh mạng, chuyển đổi số trong doanh nghiệp đang được đào tạo thông qua đề án riêng, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ và các tập đoàn công nghệ. Ngoài ra, xu hướng “xanh hóa” thị trường lao động cũng được Nhà nước tính đến, thúc đẩy các chương trình đào tạo cho người lao động chịu ảnh hưởng từ quá trình chuyển đổi công nghiệp; khuyến khích quan hệ đối tác giáo dục – doanh nghiệp trong phát triển các hoạt động xanh (như doanh nghiệp phối hợp trường nghề dạy về quy trình sản xuất sạch).
QLNN là cầu nối gắn kết giáo dục với thị trường lao động, bảo đảm đầu ra của giáo dục phù hợp đầu vào của nền kinh tế, hướng tới một nền kinh tế tri thức và xanh. Khi giáo dục và kinh tế song hành, phát triển bền vững sẽ đạt được cả về nhân lực lẫn mô hình tăng trưởng.
6. Kết luận
Tái định vị vai trò quản lý nhà nước trong giáo dục là yêu cầu tất yếu và cấp thiết để giáo dục Việt Nam trở thành động lực phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới. Nhà nước cần chuyển mình từ vai trò kiểm soát sang kiến tạo, tập trung vào hoạch định chiến lược, định hướng vĩ mô, bảo đảm chất lượng và kết nối nguồn lực, thay vì can thiệp hành chính vi mô. Vai trò kiến tạo, phục vụ này của Nhà nước chính là chìa khóa để giải phóng tiềm năng của hệ thống giáo dục, giúp giáo dục phát huy tối đa sứ mệnh quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Chú thích:
1. Chìa khóa giúp sinh viên thành công trên thị trường lao động. https://baodautu.vn/chia-khoa-giup-sinh-vien-thanh-cong-tren-thi-truong-lao-dong-d199709.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Thủ tướng Chính phủ (2024). Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.