Giải pháp phát triển logistic thương mại điện tử ở Việt Nam

NCS. ThS. Dương Thị Phương Chi
Trường Đại học Thành Đô

(Quanlynhanuoc.vn) – Kinh tế Việt Nam trong những năm qua luôn duy trì xu hướng phục hồi, tiếp tục là điểm sáng của kinh tế toàn cầu hậu Covid-19, sự phục hồi của nền kinh tế có sự đóng góp đáng kể của logistic thương mại điện tử. Tuy nhiên, hiện nay (từ 01/7/2025) Việt Nam triển khai sắp xếp lại các đơn vị hành chính đã đặt ra nhiều khó khăn cho ngành logistic thương mại điện tử. Bài viết tập trung phân tích những khó khăn của ngành logistic thương mại điện tử trong bối cảnh Việt Nam thực hiện phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của các tỉnh, thành phố; đồng thời, đề xuất một số giải pháp cho ngành logistic thương mại điện tử Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Giải pháp, khó khăn, logistic thương mại điện tử, nền kinh tế.

1. Đặt vấn đề

Thương mại điện tử Việt Nam xuất hiện khá muộn so với các nước trên thế giới nhưng lại được đánh giá cao về tiềm năng, có những giai đoạn thương mại điện tử Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng bứt phá, khiến các doanh nghiệp lớn trên thế giới đều phải đánh giá tiềm năng của ngành và thay đổi các quyết định đầu tư hướng tới nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù có được những kết quả đáng ghi nhận và được đánh giá có tiềm năng, ngành logistics Việt Nam vẫn là ngành non trẻ, còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế và gặp nhiều thách thức trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Những khó khăn mà ngành logistics vẫn đang vật lộn tìm hướng giải quyết là hạn chế về hạ tầng kỹ thuật; sự cạnh tranh giữa các đơn vụ cung cấp dịch vụ; hạn chế về mặt công nghệ và bảo mật thông tin hay bảo mật thanh toán và đặc biệt là khó khăn mới xuất hiện khi Việt Nam sắp xếp đơn vị hành chính tổ chức chính quyền địa phương hai cấp theo Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15 ngày 14/4/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Việc nhập tỉnh với tỉnh để hình thành tỉnh mới hoặc nhập tỉnh với thành phố trực thuộc trung ương để hình thành thành phố trực thuộc trung ương mới theo định hướng sắp xếp nhằm giảm số lượng, tăng quy mô đơn vị hành chính, mở rộng không gian phát triển, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương. Tuy nhiên, việc sắp xếp lại đơn vị hành chính có thể gây khó khăn cho hoạt động logistics thương mại điện tử bằng cách tạo ra những thay đổi trong địa giới hành chính, ảnh hưởng đến mạng lưới giao thông và hạ tầng, cũng như thay đổi thủ tục hành chính liên quan đến vận chuyển và xuất nhập khẩu. Điều này có thể dẫn đến khó khăn trong việc xác định địa chỉ, tăng thời gian và chi phí vận chuyển, cũng như ảnh hưởng đến quy trình quản lý của các doanh nghiệp logistics. 

2. Kết quả phát triển ngành logistics thương mại điện tử Việt Nam

Logistics trong thương mại điện tử được hiểu là các quy trình liên quan đến việc lưu trữ và vận chuyển hàng hoá, bao gồm từ quản lý hàng tồn kho, đóng gói, vận chuyển các đơn đặt hàng, và thậm chí là dịch vụ sau bán hàng như đổi trả, thu hồi, xử lý hàng. Logistics đóng vai trò thiết yếu trong việc vận chuyển và phân phối hàng hóa; đồng thời, là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của các doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế toàn cầu.

Trong thương mại điện tử, người mua có thể mua sắm không giới hạn khu vực địa lý, có thể đặt mua một sản phẩm hàng hóa bất kỳ tại quốc gia khác hay vùng miền khác qua website, thông tin đơn hàng sẽ được truyền đi và chấp nhận với tốc độ gần như tức thời. Khoảng cách địa lý của người mua và người bán được giải quyết bởi các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics thương mại điện tử, dịch vụ logistics lại là mắt xích không thể thiếu để hoàn thành các đơn hàng và giao dịch trong thương mại điện tử. Ngành logistics đóng vai trò “huyết mạch” trong toàn bộ chuỗi giá trị kinh tế, từ khâu đầu vào phục vụ sản xuất, trung gian lưu thông trong nước đến khâu cuối là xuất nhập khẩu. Logistics được coi là “xương sống” của thương mại quốc tế, không chỉ có vai trò hỗ trợ mà còn tạo động lực tăng trưởng, giúp tối ưu hóa chi phí, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa và dịch vụ Việt Nam.

Qua khảo sát 241 doanh nghiệp sử dụng và doanh nghiệp cung dịch vụ logistics tại Việt Nam, dựa trên thang đo Likert 5 mức độ tương ứng với: 1- Không quan trọng; 2- Ít quan trọng; 3- Trung bình; 4- Quan trọng; 5- Rất quan trọng, nhóm nghiên cứu thu được kết quả như sau:

Kết quả khảo sát cho thấy, các doanh nghiệp đánh giá cao vai trò của logistics trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cả ba khía cạnh logistics đều được xem là rất quan trọng, với điểm trung bình trên 4/5. Logistics đầu ra được đánh giá cao nhất (4,43), tiếp theo là logistics đầu vào (4,41), và cuối cùng là logistics ngược (4,27). Đáng chú ý, rất ít doanh nghiệp cho rằng logistics không quan trọng hoặc ít quan trọng. Phần lớn đánh giá logistics là quan trọng hoặc rất quan trọng, đặc biệt là đối với logistics đầu vào và đầu ra. Kết quả này phản ánh nhận thức ngày càng cao của doanh nghiệp về tầm quan trọng của quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả.

Trong bức tranh tổng thể về kinh tế Việt Nam, thương mại điện tử tiếp tục khẳng định vị trí là một trong những lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số. Năm 2023, quy mô thị trường thương mại điện tử bán lẻ Việt Nam đạt 20,5 tỷ USD, tăng khoảng 4 tỷ USD (tương đương 25%) so với năm 2022. Tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam được xếp vào nhóm 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới (tính đến tháng 12/2023, theo Statista)1.

Thương mại điện tử Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường phát triển nhanh ở khu vực Đông Nam Á với mức tăng trưởng cao và liên tục trong những năm vừa qua.  Theo bảng xếp hạng được Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB) ghi nhận năm 2023 Việt Nam đứng thứ 43 trong bảng chỉ số hiệu quả logistics (LPI), thuộc nhóm 5 nước đứng đầu ASEAN. Tốc độ phát triển hằng năm của ngành logistics Việt Nam bình quân đạt 14% – 15%, quy mô 40 – 42 tỷ USD một năm. Doanh nghiệp logistics của Việt Nam tăng nhanh về số lượng, đến nay đã có khoảng trên 3.000 doanh nghiệp vận tải và logistics trong nước và khoảng 25 tập đoàn logistics hàng đầu thế giới đang hoạt động2.

Theo báo cáo Chỉ số Logistics thị trường mới nổi năm 2023 do nhà cung cấp dịch vụ vận tải và hậu cần kho vận Agility công bố, Việt Nam xếp hạng 10/50, tăng 1 bậc so với năm trước. Với tốc độ tăng trưởng ngành bình quân hàng năm từ 14 – 16%, số lượng và chất lượng dịch vụ logistics được nâng cao, đóng góp quan trọng trong việc đưa tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu của Việt Nam năm 2022 lên 730,2 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2021. Theo Agility, với những thành công trong hoạt động ứng phó với đại dịch Covid-19 đã tạo có Việt Nam rất nhiều cơ hội trong hoạt động Logistics. Cụ thể trong báo cáo chỉ số Logistics năm 2021, Việt Nam đã tăng 3 hạng của Việt Nam, đặt chân lên vị trí thứ 8 là mức tăng nhanh nhất ở nửa trên của bảng xếp hạng và thay thế Thái Lan trong top 10. Trong thời gian gần đây, năng lực sản xuất, trình độ công nghệ của Việt Nam đã tăng đáng kể, thu hút đầu tư FDI từ các nhà sản xuất nâng cao chuỗi giá trị. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp nhiều thách thức như đầu tư vào công nghệ cao của Việt Nam còn thiếu kỹ năng và kiến thức để sản xuất hàng hoá có giá trị cao nhất3.

Theo đánh giá của Hiệp hội DN dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, ngành logistics Việt có nhiều cơ hội để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, song cần nhanh chóng chuyển đổi số để đáp ứng yêu cầu của thị trường. Việc Việt Nam đăng cai tổ chức FIATA World Congress 2025 – một sự kiện quan trọng của Liên đoàn các Hiệp hội Giao nhận và Vận tải quốc tế (FIATA) vào tháng 10 năm nay chính là sự ghi nhận từ cộng đồng quốc tế với sự phát triển mạnh mẽ và tiềm năng của ngành logistics Việt Nam. Đồng thời, cũng là cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc xanh hóa chuỗi cung ứng, thực thi phát triển bền vững, đặc biệt là tăng cường khả năng thích ứng của thương mại, logistics trước biến động khó lường của tình hình kinh tế, chính trị toàn cầu4.

Theo số liệu từ Cục Thống kê, tính chung 9 tháng đầu năm 2024, cả nước có gần 6,5 nghìn doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics đăng ký thành lập mới (chiếm 5,33% tổng số doanh nghiệp thành lập mới của cả nước) với tổng số vốn đăng ký là 36,55 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 28,9 nghìn lao động, tăng 13,5% về số doanh nghiệp, tăng 18,3% về số lao động, nhưng lại giảm 11,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, số doanh nghiệp lĩnh vực vận tải, kho bãi thành lập mới có 6.503 doanh nghiệp, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 20235.

Các doanh nghiệp hậu cần lớn tại Việt Nam đều có tốc độ tăng trưởng tốt, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và tăng trưởng của thương mại điện tử. Viettel Post dẫn đầu thị trường logistics Việt Nam năm 2023 nhờ mạng lưới rộng rãi, đa dạng hóa dịch vụ, ứng dụng công nghệ hiện đại và các quan hệ chiến lược. Tiêu chí xếp hạng dựa trên số liệu (doanh thu) được công bố đối với các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán và có cung cấp dịch vụ logistics, không bao gồm các doanh nghiệp cung cấp cơ sở hạ tầng cảng, kho bãi6.

Bảng 1. Xếp hạng doanh nghiệp logistics theo doanh thu năm 2023

STTTên doanh nghiệpDoanh thu (VND)
1Viettel Post19.587.521.805.154
2Công ty cổ phần Vinafreight1.122.951.793.674
3Công ty cổ phần đại lý vận tải Safi1.017.527.242.605
4Gemadept mảng logistics937.000.000.000
5VNT Logistics879.526.958.129
6Công ty cổ phần Logistics VINALINK729.154.403.208
7Transimex Logistics248.428.898.783
(Nguồn: Valoma, 2024)

3. Những hạn chế, khó khăn của ngành logistics Việt Nam

Trong những năm qua, ngành logistics Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ nhờ hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp trong thời gian qua. Dù vậy, ngành logistics của Việt Nam trên thực tế vẫn còn một số khó khăn, hạn chế, như:

(1) Chính sách, thể chế đối với ngành thương mại điện tử và logistics thương mại điện tử chưa đồng bộ, chưa có khung khổ pháp lý đầy đủ đối với ngành logistics, nhiều quy định chồng chéo và bất cập gây khó khăn và bức xúc cho doanh nghiệp logistics.

(2)Hạ tầng giao thông vận tải và hạ tầng logistics, như kho hàng, bến bãi, trung tâm logistics còn hạn chế, chưa đồng bộ, chưa hình thành được các hành lang vận tải đa phương thức thông suốt, còn thiếu các trung tâm logistics ở vị trí chiến lược, kết nối với hệ thống cảng, sân bay, đường bộ và cơ sở sản xuất. Hạ tầng giao thông vận tải chưa đáp ứng yêu cầu dẫn tới chất lượng dịch vụ logistics bị ảnh hưởng, sẽ khó khăn cho doanh nghiệp thương mại điện tử trong cạnh tranh với các đối thủ như: Temu, Shein…

(3) Ngành logistics mới được quan tâm đào tạo trong thời gian gần đây nên nhân sự ngành logistics hiện nay còn hạn chế về trình độ, kinh nghiệm. Doanh nghiệp logistics yếu về vốn, nguồn nhân lực, khả năng cạnh tranh thấp, thường đóng vai trò nhà thầu phụ hay đại lý cho các tập đoàn nước ngoài.

(4) Vấn đề an ninh, bảo mật trong thương mại điện tử là một thách thức lớn, bao gồm các mối đe dọa như tấn công từ chối dịch vụ phân tán (DDoS), tấn công SQL Injection, tấn công Cross-Site Scripting (XSS), lừa đảo (phishing), phần mềm độc hại, và nhiều hình thức gian lận khác cũng là rào cản đối với doanh nghiệp logistics thương mại điện tử.

(5) Chi phí logistics ở Việt Nam hiện trung bình ở mức 16 – 17% GDP, nhiều năm trước đây còn là 18 – 19%, đây là mức chi phí logistics tương đối cao so với các nước trong khu vực và châu lục (Nhật Bản chi phí logistics chỉ chiếm 11%/GDP, Singapore 8%, Malaysia 13%, Indonesia 13%)7.

(6) Vốn mỏng và lo ngại rủi ro pháp lý là những lý do hàng đầu khiến doanh nghiệp logistics chưa “mặn mà” đầu tư vào các công cụ chuyển đổi số. Dịch vụ logistics thường hoạt động theo chuỗi và doanh nghiệp logistics bị chi phối bởi nhiều tác nhân, như: hải quan, doanh nghiệp, hãng tàu… Chưa có nhiều doanh nghiệp trong ngành logistics ứng dụng các giải pháp có tính tích hợp cao, mà đa phần chỉ áp dụng các giải pháp đơn lẻ. Khoảng 40% ứng dụng công nghệ đang được sử dụng tại các doanh nghiệp logistics là các ứng dụng cơ bản, như: quản lý giao nhận quốc tế, quản lý kho hàng, vận tải, trao đổi dữ liệu điện tử và khai báo hải quan.

(7) Khi triển khai Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khiến doanh nghiệp logistics đối mặt với các vấn đề, như: thay đổi địa giới hành chính, việc sắp xếp lại đơn vị hành chính có thể thay đổi địa giới của các khu vực, khiến cho việc xác định địa chỉ, địa điểm nhận hàng và giao hàng trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Thay đổi thủ tục hành chính, việc thay đổi địa giới hành chính có thể dẫn đến thay đổi trong các thủ tục hành chính liên quan đến vận chuyển và xuất nhập khẩu, gây khó khăn trong việc tuân thủ luật pháp và quy định. Tăng chi phí vận chuyển, do việc thay đổi địa giới hành chính và mạng lưới giao thông, chi phí vận chuyển có thể tăng lên, làm giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics. Ảnh hưởng đến quản lý, việc thay đổi địa giới hành chính có thể làm tăng khó khăn trong việc quản lý và điều phối các hoạt động logistics, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trên nhiều tỉnh, thành phố

4. Giải pháp phát triển ngành logistics thương mại điện tử Việt Nam

Qua khảo sát các doanh nghiệp cung dịch vụ logistics tại Việt Nam, dựa trên thang đo Likert 5 mức độ tương ứng với: 1- Không khó khăn; 2- Ít khó khăn; 3- Trung bình; 4- Khó khăn; 5- Rất khó khăn, thu được kết quả như sau:

Khảo sát về khó khăn khi tự thực hiện dịch vụ logistics cho thấy, doanh nghiệp gặp nhiều thách thức ở mức độ trung bình. Vấn đề tăng chi phí logistics được đánh giá là khó khăn nhất với điểm trung bình 3,2/5. Tiếp theo là khó khăn về vốn (2,9/5) và không chủ động về thời gian (2,8/5). Thiếu tính chuyên nghiệp được xem là ít khó khăn nhất (2,7/5). Để giảm thiểu những khó khăn này, giải pháp logistics trong thương mại điện tử được đề xuất, gồm:

Một là, tăng cường ứng dụng công nghệ tiên tiến, tối ưu hóa vận hành, số hóa quy trình, áp dụng các hệ thống quản lý vận tải, kho hàng và nguồn lực doanh nghiệp để tự động hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động. Xây dựng nền tảng logistics số quốc gia, kết nối dữ liệu giữa các khâu từ cảng, hải quan, kho bãi đến phương tiện vận chuyển.

Hai là, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cần tăng cường sự phối hợp giữa doanh nghiệp, các cơ sở giáo dục và chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho đào tạo nhân lực ngành logistics thương mại điện tử.

Ba là, chuyển đổi xanh theo hướng tới phát triển bền vững cho logistics thương mại điện tử để mang lại nhiều lợi ích thiết thực từ việc giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường, đến nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về bền vững.

Bốn là, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ vốn; chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí với doanh nghiệp vận tải, logictic. Đặc biệt là các giải pháp cải cách thủ tục hải quan và thuế với doanh nghiệp logistics thương mại điện tử.

Năm là, doanh nghiệp cần áp dụng nhiều giải pháp, bao gồm: việc sử dụng HTTPS, bảo mật server và Admin panel, hệ thống thanh toán an toàn, phần mềm diệt virus, tường lửa, chứng chỉ SSL nâng cao, bảo mật nhiều tầng, plugin bảo mật, và sao lưu dữ liệu. Đồng thời, việc nâng cao nhận thức bảo mật cho nhân viên, theo dõi tình hình an ninh mạng và cảnh báo người dùng.

Sáu là, giải quyết các vấn đề phát sinh cho ngành logistics từ triển khai Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15, như cập nhật thông tin về địa giới hành chính, xây dựng mạng lưới giao thông linh hoạt, tối ưu hóa quy trình quản lý trong doanh nghiệp phù hợp với tình hình sắp xếp các tỉnh, thành phố, xã, phường, thị trấn mới.

5. Kết luận

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, logistics thương mại điện tử đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất và thương mại tại Việt Nam. Theo Báo cáo Logistics Việt Nam năm 2023 của Bộ Công Thương, chi phí logistics ở Việt Nam hiện chiếm khoảng 16,5% GDP, giảm nhẹ so với năm trước nhưng vẫn cao hơn mức trung bình của thế giới (11,6%). Điều này cho thấy tiềm năng lớn trong việc tối ưu hóa hoạt động logistics để cắt giảm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để tận dụng tối đa lợi ích từ logistics thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần thực hiện các nhóm  giải pháp nêu trên.

Chú thích:
1. Cục thương mại điện tử và kinh tế số Việt Nam (2023). Sách trắng thương mại điện tử. https://idea.gov.vn/?page=document
2. The Worldbank (2023). Chỉ số hiệu suất logistics (LPI). https://lpi.worldbank.org/international/global.
3. Báo cáo Chỉ số Logistics thị trường mới nổi. https://www.agility.com/en/emerging-markets-logistics%20index.
4. Thúc đẩy ngành logistics Việt tham gia sâu vào chuỗi cung ứng. https://vla.com.vn/thuc-day-nganh-logistics-viet-tham-gia-sau-vao-chuoi-cung-ung.
5. Cục Thống kê (2024). Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2024. https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/10/Sach-trang-doanh-nghiep-Viet-Nam-2024.pdf.
6. Valoma (2024). Báo cáo logistics Việt Nam 2024. https://valoma.vn/wp-content/uploads/2024/12/Sach-Bao-cao-Logistics-2024-full.pdf.
7. Giảm chi phí logistics để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam. https://baochinhphu.vn/giam-chi-phi-logistics-de-nang-cao-nang-luc-canh-tranh-cho-hang-hoa-viet-nam.htm.
Tài liệu tham khảo:
1. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2025). Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15 ngày 14/4/2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính năm 2025.
2. Việt Nam nỗ lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. https://kinhtevadubao.vn/viet-nam-no-luc-day-nhanh-tien-do-thuc-hien-cac-muc-tieu.
3. Thương mại điện tử giúp thúc đẩy dịch vụ logistics phát triển. https://moit.gov.vn/khoa-hoc-va-cong-nghe/thuong-mai-dien-tu-giup-thuc-day-dich-vu-logistics-phat-trien.html.