Xây dựng chính quyền hai cấp vững mạnh góp phần giữ vững an ninh chính trị địa bàn Tây Nguyên

Đại úy, ThS. Trình Quốc Hưng
Học viện An ninh nhân dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; đồng thời tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp về dân tộc, tôn giáo và quản lý đất đai. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự gia tăng thách thức an ninh phi truyền thống, yêu cầu giữ vững an ninh chính trị, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và thúc đẩy phát triển bền vững trở nên cấp thiết. Mô hình chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh và xã) được xác định là giải pháp đột phá, vừa tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý, vừa tăng cường năng lực quản trị ở cơ sở. Bài viết phân tích thực trạng, nhận diện thách thức và đề xuất giải pháp xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, ổn định xã hội và phát triển bền vững Tây Nguyên.

Từ khóa: Chính quyền hai cấp, an ninh chính trị, cải cách hành chính, Tây Nguyên.

1. Đặt vấn đề

Tây Nguyên trước đây gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng, là khu vực giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cả về quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, từ ngày 01/7/2025, các tỉnh đã được sáp nhập với một số tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, hình thành bốn tỉnh mới: Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng với tổng số 457 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 264 xã, phường thuộc địa bàn Tây Nguyên (toàn bộ các xã, phường của 5 tỉnh cũ), cùng 6.612 thôn, buôn, tổ dân phố. Với diện tích trên 54.500 km² và dân số khoảng 6,1 triệu người, trong đó trên 2 triệu là đồng bào dân tộc thiểu số (chiếm 36%), Tây Nguyên vừa là trung tâm sản xuất nông – lâm nghiệp lớn, vừa là địa bàn trọng yếu về an ninh chính trị.

Tuy nhiên, do đặc điểm đa dân tộc, đa tôn giáo, lại tồn tại nhiều khó khăn trong phát triển hạ tầng, đời sống và tiếp cận thông tin, Tây Nguyên luôn tiềm ẩn nguy cơ phức tạp về an ninh chính trị. Các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đất đai để gieo rắc tư tưởng ly khai, tự trị, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và kích động biểu tình, bạo loạn. Thực tiễn cho thấy, mỗi biến động xã hội ở vùng này đều có khả năng tác động dây chuyền, ảnh hưởng tới ổn định chính trị chung của đất nước.

Trong bối cảnh đó, yêu cầu xây dựng một mô hình chính quyền địa phương tinh gọn, hiệu lực, sát dân và đủ năng lực quản trị xã hội trở nên cấp thiết. Việc triển khai mô hình chính quyền hai cấp (tỉnh và xã) được xác định là bước đột phá quan trọng, không chỉ nhằm cải cách hành chính mà còn là công cụ để tăng cường “lá chắn” an ninh chính trị, bảo vệ vững chắc ổn định xã hội, giữ gìn quốc phòng – an ninh, đồng thời, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của khu vực chiến lược Tây Nguyên trong giai đoạn mới.

2. Thực trạng an ninh chính trị và yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng chính quyền hai cấp vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân1. Trên cơ sở đó, Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 đã xác lập mô hình chính quyền hai cấp, không tổ chức HĐND, UBND cấp huyện, mà chỉ duy trì cơ quan chuyên môn giúp việc thuộc tỉnh, đồng thời, phân cấp mạnh cho cấp xã trong thực thi chính sách, quản lý dân sinh.  Theo Bộ Nội vụ, mô hình này giúp tinh gọn bộ máy, giảm chi ngân sách từ 300 – 500 tỷ đồng mỗi năm tại các tỉnh có địa bàn rộng như Tây Nguyên, đồng thời rút ngắn thời gian xử lý thủ tục hành chính giảm từ 15% – 30% so với trước2.

Tây Nguyên có hơn 700km đường biên giới tiếp giáp với Lào và Campuchia, là khu vực trung chuyển giữa các vùng kinh tế trọng điểm, như: Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam. Địa hình hiểm trở, dân cư phân bố rải rác, hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ khiến khu vực này dễ bị các tổ chức phản động xâm nhập, lôi kéo, kích động. Theo Tổng cục Thống kê (2024), tỷ lệ hộ nghèo đa chiều tại Tây Nguyên đạt 12,9%, cao gần gấp ba lần mức trung bình của cả nước (4,3%), trong đó nhiều huyện vùng sâu như Ia H”Drai (Kon Tum), Krông Bông (Đắk Lắk) hay Đam Rông (Lâm Đồng) có tỷ lệ hộ nghèo trên 30%3. Những con số này cho thấy, đây vẫn là vùng “nhạy cảm”, dễ bị các thế lực lợi dụng để chia rẽ khối đại đoàn kết, kích động bất ổn.  Các diễn biến an ninh gần đây càng khẳng định tính cấp thiết của việc củng cố chính quyền cơ sở. Các tổ chức phản động, như “Tin lành Đê Ga”, “Hà Mòn” đã lợi dụng vấn đề tôn giáo để truyền bá tư tưởng ly khai, kích động bạo loạn, như vụ tụ tập trái phép tại Ia Grai (Gia Lai, 2021) hay vụ tấn công trụ sở công an tại Cư Kuin (Đắk Lắk, năm 2023)4. Những vụ việc này cho thấy, chỉ khi chính quyền địa phương đủ mạnh, đủ sát dân và đủ năng lực giải quyết mâu thuẫn xã hội thì mới có thể ngăn chặn các nguy cơ bất ổn từ gốc, từ xa.

Chính quyền cấp tỉnh giữ vai trò hoạch định chính sách, quản lý vĩ mô, điều phối liên vùng. Trong khi đó, chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tiếp xúc với người dân, thực hiện các chính sách dân sinh, như: y tế, giáo dục, đất đai, trật tự xã hội. Sự phối hợp linh hoạt giữa hai cấp giúp rút ngắn thời gian phản ứng chính sách, nắm bắt tâm tư người dân, xử lý kịp thời các mâu thuẫn xã hội. Sau quá trình sắp xếp đơn vị hành chính theo tinh thần Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, nhiều xã tại khu vực Tây Nguyên đã được hình thành trên cơ sở hợp nhất địa giới và dân cư. Quy mô diện tích của các xã mới tăng lên gấp đôi, thậm chí gấp ba so với trước đây; dân số cũng tăng mạnh, có nơi lên tới hàng chục nghìn người. Trong khi đó, bộ máy hành chính cấp xã lại không được bổ sung biên chế tương ứng, thậm chí tại một số địa phương còn phải thực hiện tinh giản theo lộ trình chung. Điều này tạo ra áp lực chưa từng có đối với chính quyền cơ sở – nơi trực tiếp tiếp xúc, phục vụ người dân và thực thi các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Không chỉ đảm đương phần việc truyền thống, chính quyền cấp xã hiện nay còn phải tiếp nhận thêm một phần nhiệm vụ từ cấp huyện. Kết quả tất yếu của quá trình tinh gọn tổ chức trung gian. Địa bàn rộng hơn, dân cư đông hơn, công việc nhiều hơn nhưng nguồn lực thì không đổi. Trong bối cảnh đó, nếu đội ngũ cán bộ cấp xã vẫn giữ nguyên tư duy cũ, cách làm cũ thì không thể kỳ vọng xây dựng được một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, lấy người dân làm trung tâm phục vụ.

Mô hình chính quyền hai cấp không chỉ đáp ứng yêu cầu tinh gọn bộ máy mà còn bảo đảm hiệu lực quản lý từ tỉnh đến cơ sở. Chính quyền gần dân, hiểu dân, giải quyết kịp thời mâu thuẫn từ sớm, từ xa sẽ ngăn chặn nguy cơ “chuyển hóa” thành điểm nóng. Mô hình này tạo dựng lòng tin trong Nhân dân, yếu tố then chốt trong ổn định chính trị vùng Tây Nguyên hiện nay.

Tại Tây Nguyên, mô hình chính quyền hai cấp bước đầu phát huy hiệu quả trong nhiều lĩnh vực: tăng cường khả năng chỉ đạo từ cấp tỉnh đối với các vấn đề nhạy cảm, như: khiếu kiện đất đai, tranh chấp tôn giáo; đẩy mạnh phân quyền cho cấp xã trong giải quyết công việc dân sinh, hỗ trợ sản xuất, ứng phó thiên tai; tỷ lệ xử lý khiếu nại đúng hạn tại cấp xã tăng từ 72% (năm 2021) lên 88% (năm 2024). Đặc biệt, tỷ lệ cán bộ cấp xã sử dụng thành thạo cổng dịch vụ công đạt 89% – một bước tiến lớn trong cải cách hành chính5.

Thời gian xử lý thủ tục hành chính từ 15 – 30%. Tỉnh Lâm Đồng là địa phương thí điểm mô hình này từ năm 2023. Kết quả khảo sát của Sở Nội vụ cho thấy, mức độ hài lòng của người dân tăng từ 78% lên 91% chỉ sau một năm. Tỷ lệ hồ sơ hành chính xử lý đúng hạn tăng đáng kể, thời gian xử lý giảm trung bình 22%, trong khi tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 cũng tăng từ 54% năm 2022 lên 74% năm 20246. Điều này cho thấy, khi bộ máy được tổ chức hợp lý, tinh gọn và ứng dụng công nghệ, chính quyền sẽ gần dân và phục vụ dân tốt hơn.

Một trong những cơ hội quan trọng mà mô hình chính quyền địa phương hai cấp mang lại chính là khả năng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã thông qua tái cơ cấu nhân sự. Việc xóa bỏ cấp huyện đã tạo điều kiện bố trí lại những cán bộ, công chức có năng lực chuyên môn, kỹ năng quản trị và tư duy hệ thống về công tác tại cấp xã. Nếu được thực hiện hợp lý, đây sẽ là nguồn lực quý báu, góp phần hiện đại hóa bộ máy hành chính cơ sở. Tuy nhiên, cần thấy rằng không phải cán bộ nào từ cấp huyện (cũ) về xã cũng dễ dàng thích nghi bởi vì ở cấp huyện trước đây, công việc chủ yếu mang tính hành chính, pháp lý; trong khi ở cấp xã, cán bộ phải trực tiếp giải quyết các tình huống phức tạp của người dân, đòi hỏi sự linh hoạt, thấu cảm và kinh nghiệm thực tiễn.

Thực tiễn có những trường hợp “trái luật nhưng hợp tình”, hoặc mâu thuẫn nhỏ gắn với yếu tố dòng tộc, cộng đồng. Nếu xử lý máy móc, thiếu linh hoạt sẽ dễ dẫn tới bất ổn xã hội. Chính vì vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ xã cần được nhìn nhận không chỉ ở trình độ chuyên môn mà còn ở kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống và tinh thần phục vụ. Đặc biệt, trong thời đại số, yêu cầu đối với cán bộ xã không dừng lại ở bằng cấp mà mở rộng sang năng lực sử dụng công nghệ thông tin, khả năng vận hành phần mềm quản lý, cập nhật chính sách qua nền tảng học liệu số. Tuy nhiên, thực tế cho thấy khoảng cách giữa yêu cầu và năng lực cán bộ cấp xã vẫn còn rất lớn.

Theo Công văn số 006/BNV-CQĐP ngày 01/3/2025 về việc rà soát, báo cáo về số lượng, chất lượng cán bộ, công chức cấp xã của Bộ Nội vụ, các địa phương đã tiến hành rà soát và báo cáo tình hình đội ngũ cán bộ cấp xã đến hết năm 2024. Kết quả ban đầu cho thấy, tình trạng cán bộ chưa đạt chuẩn vẫn phổ biến, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Thiếu hụt kỹ năng công nghệ, năng lực lập kế hoạch, quản lý ngân sách, thẩm định hồ sơ, hoặc tiếp cận người dân một cách hiệu quả là những vấn đề cốt lõi, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng quản trị ở cơ sở. Đáng chú ý, trong khi dân số người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 36% tại các xã vùng sâu, vùng xa thì tỷ lệ cán bộ là người dân tộc mới chỉ đạt 17%7, gây cản trở đáng kể trong việc truyền đạt chính sách, xử lý tranh chấp tín ngưỡng, đất đai – những vấn đề vốn nhạy cảm tại Tây Nguyên.

Những hạn chế trên khiến việc giải quyết thủ tục hành chính tại nhiều xã còn chậm trễ, thiếu chính xác, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Nếu không sớm có giải pháp tổng thể và bền vững, tình trạng này sẽ không chỉ làm suy giảm hiệu quả vận hành mô hình chính quyền hai cấp, mà còn bào mòn lòng tin của người dân đối với Nhà nước.

3. Một số giải pháp củng cố và phát huy hiệu quả chính quyền hai cấp góp phần bảo đảm an ninh chính trị địa bàn Tây Nguyên

Trước yêu cầu đổi mới, cần thiết phải tiến hành sàng lọc, bồi dưỡng và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cấp xã một cách bài bản. Việc giữ lại những người có năng lực, tâm huyết. Đồng thời, mạnh dạn thay thế các cán bộ không còn phù hợp phải được thực hiện một cách nhân văn nhưng dứt khoát. Việc tái bố trí nhân sự từ huyện về xã cần gắn với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng “gần dân, sát dân”, tư duy phục vụ và khả năng thích ứng với môi trường công việc linh hoạt, đa chiều ở cơ sở.

Để chính quyền địa phương hai cấp trở thành nền tảng vững chắc bảo vệ an ninh chính trị Tây Nguyên, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở ở Tây Nguyên trong quá trình triển khai mô hình chính quyền hai cấp.

Trong bối cảnh triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp tại khu vực Tây Nguyên – một vùng đất đa dạng về dân tộc, văn hóa và tôn giáo, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở không chỉ là yêu cầu tất yếu mà còn là yếu tố quyết định hiệu quả quản trị, giữ vững ổn định chính trị và thúc đẩy phát triển bền vững. Đặc thù của Tây Nguyên có tỷ lệ dân cư người dân tộc thiểu số chiếm hơn 35%, phân bố không đồng đều giữa các vùng, với đời sống văn hóa, tín ngưỡng phong phú và hệ giá trị cộng đồng gắn bó chặt chẽ với đất đai, rừng núi. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ cơ sở, đặc biệt ở cấp xã không chỉ vững về chuyên môn hành chính mà còn phải am hiểu sâu sắc văn hóa bản địa, có khả năng giao tiếp, thuyết phục, hòa giải các xung đột tiềm ẩn liên quan đến đất đai, tôn giáo và sắc tộc.

Bên cạnh đó, việc ưu tiên tuyển chọn và đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số, có năng lực, phẩm chất đạo đức và khả năng giao tiếp song ngữ có ý nghĩa quan trọng. Việc này không chỉ mang lại lợi thế về ngôn ngữ, mà còn giúp củng cố niềm tin của cộng đồng dân tộc thiểu số vào chính quyền, giảm bớt rào cản hành chính và tâm lý e ngại. Song song đó, cần đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo hướng thực tiễn, cụ thể hơn, tập trung vào kỹ năng xử lý tình huống đa tộc người, giải quyết mâu thuẫn liên quan đến đất đai, tín ngưỡng (vốn là những vấn đề nhạy cảm, dễ phát sinh phức tạp nếu thiếu hiểu biết văn hóa và phương pháp tiếp cận phù hợp).

Thực tiễn tại một số địa phương, như: Kon Tum, Đắk Lắk cho thấy, những xã có cán bộ là người bản địa, am hiểu phong tục tập quán và có kỹ năng vận động người dân thường đạt hiệu quả cao hơn trong việc hòa giải tranh chấp, vận động đồng bào thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. Điều đó càng khẳng định vai trò then chốt của công tác cán bộ trong bối cảnh đổi mới mô hình chính quyền hiện nay. Vì vậy, việc xây dựng một đội ngũ cán bộ cơ sở đủ năng lực, am hiểu địa phương, có kỹ năng quản trị và khả năng xử lý tình huống phức tạp cần được đặt lên hàng đầu trong chiến lược cải cách hành chính và phát triển bền vững vùng Tây Nguyên giai đoạn tới.

Hai là, tăng cường phân quyền và gắn kết phát triển kinh tế – xã hội với bảo vệ quốc phòng, an ninh ở cấp xã vùng Tây Nguyên.

Trong bối cảnh mô hình chính quyền địa phương hai cấp đang được triển khai sâu rộng tại khu vực Tây Nguyên, việc đẩy mạnh phân quyền gắn với chuyển đổi số và tích hợp phát triển kinh tế – xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trở thành những yêu cầu cấp thiết nhằm thích ứng hiệu quả với những đặc thù địa phương. Trên thực tế, cấp xã – nơi gần dân nhất – đang phải đối diện với nhiều tình huống phát sinh có tính chất khẩn cấp, như: mâu thuẫn cộng đồng, tranh chấp đất đai, khiếu nại kéo dài hay sự cố thiên tai. Để xử lý linh hoạt, kịp thời và hiệu quả, cần trao quyền chủ động cao hơn cho cấp xã trong phạm vi thẩm quyền phù hợp. Điều này bao gồm cả việc đơn giản hóa quy trình giải quyết khiếu nại, giảm bớt thủ tục hành chính không cần thiết nhằm tạo điều kiện để chính quyền cơ sở phát huy vai trò điều phối, ổn định trật tự xã hội ngay từ địa bàn dân cư.

Cùng với phân quyền, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước cấp xã cần được đẩy mạnh theo hướng xây dựng các nền tảng phản ánh kiến nghị trực tuyến tích hợp song ngữ – sử dụng cả tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số phổ biến, như: Ê Đê, Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng… Đây không chỉ là công cụ để người dân tham gia giám sát, phản biện chính sách mà còn là kênh giao tiếp hiệu quả, góp phần tăng cường sự minh bạch và củng cố niềm tin của cộng đồng vào chính quyền. Theo đó, phát triển kinh tế – xã hội ở các xã vùng sâu, vùng biên giới cần được đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng, an ninh. Việc ưu tiên đầu tư hạ tầng thiết yếu như giao thông, y tế, điện – nước cho các xã đặc biệt khó khăn, kết hợp với xây dựng các cụm dân cư an toàn, có liên kết chặt chẽ với các tổ tự quản, dân quân tự vệ… sẽ góp phần tạo thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Ngoài ra, cần hỗ trợ phát triển các mô hình hợp tác xã đa ngành gắn với kinh tế tuần hoàn, nhằm giảm phụ thuộc vào các cây công nghiệp dễ tổn thương trước biến đổi khí hậu và thị trường. Đây là hướng đi bền vững giúp nâng cao sinh kế cho người dân, đồng thời củng cố thế trận lòng dân – yếu tố cốt lõi để bảo vệ an ninh chính trị vùng chiến lược Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay.

Ba là, thúc đẩy dân chủ và tăng cường giám sát cộng đồng.

Một trong những yêu cầu trọng tâm để xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp vững mạnh tại Tây Nguyên chính là thúc đẩy dân chủ thực chất từ cơ sở. Việc thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ ở cơ sở không chỉ là một nguyên tắc hiến định mà còn là điều kiện tiên quyết để huy động sức mạnh nhân dân tham gia vào quá trình quản trị địa phương, đặc biệt trong bối cảnh nhiều xã sau sáp nhập có quy mô lớn, dân cư đa dạng về thành phần dân tộc, tôn giáo và trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đồng đều.

Việc thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở cần vượt qua hình thức tổ chức các cuộc họp dân đơn thuần, để thực sự trở thành một cơ chế vận hành quyền lực nhân dân – nơi người dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra và được giám sát đối với các hoạt động quản lý nhà nước. Đặc biệt, trong điều kiện đặc thù của Tây Nguyên, việc bảo đảm tiếng nói bình đẳng cho người dân tộc thiểu số, người có uy tín trong cộng đồng và các nhóm dễ bị tổn thương là vấn đề cần được ưu tiên. Các công cụ, như: hòm thư góp ý, hội nghị đối thoại định kỳ giữa chính quyền và nhân dân cần được thể chế hóa và duy trì thường xuyên.

Một trong những điểm mấu chốt là phải nâng cao chất lượng công tác giám sát cộng đồng thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng và các tổ chức đoàn thể. Những thiết chế này cần được tiếp sức cả về nghiệp vụ và công nghệ nhằm giúp người dân tiếp cận thông tin một cách dễ dàng, minh bạch và có cơ sở để phát hiện, phản ánh sai phạm. Ở nhiều địa phương trong vùng, khi người dân được trao quyền giám sát thực sự, hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, đặc biệt trong đầu tư công đã có những chuyển biến tích cực góp phần làm giảm thất thoát, nâng cao chất lượng công trình và tăng cường niềm tin vào bộ máy công quyền.

Trong bối cảnh mới, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ là mục tiêu chính trị mà còn là chiến lược phát triển bền vững, bởi chỉ khi lòng dân được quy tụ, tiếng nói của cộng đồng được lắng nghe thì các quyết sách của chính quyền mới thực sự thuyết phục và có sức sống lâu dài. Với đặc thù văn hóa – xã hội Tây Nguyên, đây cũng là yếu tố bảo đảm sự ổn định chính trị và là “phên dậu” vững chắc nơi biên giới Tổ quốc.

Bốn là, phát huy vai trò “người có uy tín” trong giải quyết mâu thuẫn xã hội.

Trong tiến trình xây dựng chính quyền địa phương hai cấp vững mạnh, ổn định và gần dân tại khu vực Tây Nguyên, việc phát huy vai trò của đội ngũ “người có uy tín” không chỉ là một giải pháp tình thế, mà cần được xác định là một chiến lược dài hạn mang tính bản địa hóa công tác quản trị xã hội. Những người có uy tín trong cộng đồng, bao gồm: già làng, trưởng họ, chức sắc tôn giáo, cựu chiến binh gương mẫu, hoặc các cá nhân tiêu biểu trong phát triển kinh tế không chỉ là cầu nối giữa chính quyền với người dân mà còn là chủ thể giữ gìn sự ổn định tâm lý, trật tự và niềm tin trong đời sống cộng đồng.

Trên thực tế, ở nhiều buôn làng vùng sâu, vùng xa, nơi mà hệ thống hành chính chính quy còn gặp khó khăn trong tiếp cận thường xuyên với người dân, thì vai trò của người có uy tín càng trở nên nổi bật. Họ không chỉ đóng vai trò hòa giải các vụ việc mâu thuẫn trong dòng họ, cộng đồng về đất đai, tài sản, hôn nhân – gia đình mà còn có khả năng dự báo sớm các xung đột xã hội có thể phát sinh từ các nguyên nhân tưởng chừng rất nhỏ, như: lệ làng, tôn giáo, niềm tin tín ngưỡng, thậm chí là tin đồn. Trong nhiều trường hợp, một lời khuyên từ già làng có giá trị hơn cả một cuộc họp hành chính. Điều này cho thấy, sức nặng của sự tín nhiệm trong xã hội truyền thống và vai trò “phi thể chế” nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực thi chính sách ở cấp cơ sở.

Tuy nhiên, để đội ngũ này thật sự phát huy vai trò, cần có cơ chế công nhận, hỗ trợ, đào tạo và lồng ghép chính sách một cách hệ thống. Việc tổ chức tập huấn kỹ năng pháp lý, kỹ năng xử lý tình huống xã hội, cung cấp thông tin chính thống để họ kịp thời định hướng dư luận và giải thích chính sách cho cộng đồng là rất cần thiết. Đồng thời, chế độ đãi ngộ hợp lý cũng là yếu tố góp phần duy trì sự gắn bó và tinh thần trách nhiệm của họ đối với địa phương.

Trong bối cảnh Tây Nguyên đang chuyển mình mạnh mẽ cả về hành chính và kinh tế – xã hội, người có uy tín cần được nhìn nhận như những “kiến trúc sư văn hóa” giữ nền cho sự ổn định. Phát huy tốt lực lượng này chính là phát huy một “lực lượng mềm” trong xây dựng lòng tin và bảo vệ an ninh chính trị ngay từ gốc – từ lòng dân.

Năm là, tăng cường cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin từ cơ sở.

Trong tiến trình xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở khu vực Tây Nguyên, nơi có cơ cấu dân cư đa dạng về thành phần dân tộc, tín ngưỡng và phong tục tập quán, việc thiết lập cơ chế tương tác hiệu quả giữa chính quyền và nhân dân không chỉ là yêu cầu tất yếu về mặt quản trị nhà nước mà còn là yếu tố quyết định đến chất lượng quản lý xã hội và mức độ ổn định chính trị. Trong đó, tăng cường cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin hai chiều giữa chính quyền và nhân dân, thông qua hoạt động tham vấn chính sách định kỳ, nhất là tại cấp xã, cấp huyện cần được nhìn nhận như một công cụ dân chủ có vai trò thiết lập lòng tin và bảo đảm tính phản hồi trong thực thi công vụ.

Thực tế tại các địa phương Tây Nguyên cho thấy, những khoảng cách về ngôn ngữ, trình độ dân trí, sự chênh lệch trong tiếp cận thông tin đã và đang khiến cho một bộ phận người dân vùng dân tộc thiểu số gặp khó khăn trong việc hiểu, tiếp nhận và đồng thuận với các chính sách phát triển. Tình trạng hiểu nhầm, nghi ngờ hoặc thiếu niềm tin vào chính quyền thường xuất hiện khi thông tin một chiều từ cấp trên được truyền đạt mà không có cơ chế đối thoại và phản hồi hiệu quả từ phía người dân. Do đó, việc thể chế hóa các cuộc tiếp xúc, tham vấn định kỳ với sự hiện diện trực tiếp của lãnh đạo tỉnh, xã sẽ tạo nên không gian đối thoại chính sách có tổ chức, qua đó giúp tháo gỡ kịp thời các vướng mắc, phản ánh đúng thực tiễn cuộc sống và mở rộng không gian dân chủ ở cơ sở.

Cơ chế này còn có vai trò như một phương tiện phòng ngừa xung đột tiềm ẩn liên quan đến đất đai, tôn giáo, chính sách đền bù, tái định cư – vốn là những vấn đề từng gây bất ổn tại một số địa bàn nhạy cảm. Khi chính quyền chủ động hiện diện, lắng nghe, tiếp thu và trả lời các thắc mắc, chất vấn của người dân, đó không chỉ là thực hành dân chủ mà còn là hành vi biểu hiện trách nhiệm chính trị, đạo đức công vụ và cam kết hành động. Chính hình ảnh một chính quyền gần dân, cầu thị và sẵn sàng chịu trách nhiệm sẽ làm gia tăng niềm tin xã hội, củng cố thế trận lòng dân – yếu tố then chốt bảo vệ an ninh chính trị và phát triển bền vững ở vùng đất chiến lược này.

Do vậy, để mô hình chính quyền hai cấp thực sự vận hành hiệu quả, các địa phương cần xây dựng khung pháp lý cụ thể cho hoạt động tham vấn công dân, lồng ghép nội dung đối thoại vào kế hoạch công tác hằng năm, gắn trách nhiệm giải trình với cơ chế theo dõi và đánh giá sau đối thoại. Mỗi cuộc đối thoại không nên dừng lại ở vai trò của một sự kiện chính trị mang tính hình thức, mà phải trở thành cơ chế nền tảng cho một nền quản trị minh bạch, có sự tham gia và hướng đến công bằng xã hội.

4. Kết luận

Việc xây dựng và hoàn thiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp được xác định là một bước tiến có ý nghĩa chiến lược trong tiến trình cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh các địa phương vùng Tây Nguyên đang đứng trước những yêu cầu phát triển mới gắn với bảo đảm an ninh chính trị và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Với tính chất là khu vực có vị trí địa chính trị đặc biệt quan trọng, đồng thời là nơi cư trú đan xen của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số, Tây Nguyên đòi hỏi một mô hình quản trị vừa hiệu quả, linh hoạt, vừa có khả năng thích ứng với đặc thù văn hóa, xã hội của từng địa phương. Mô hình chính quyền địa phương hai cấp, với với cấp tỉnh giữ vai trò hoạch định, điều phối vĩ mô và cấp xã trực tiếp thực thi, phục vụ dân sinh, được xem là giải pháp tổ chức hợp lý, giảm tầng nấc trung gian, tinh gọn bộ máy, từ đó nâng cao hiệu quả điều hành và quản lý xã hội.

Tuy nhiên, để mô hình này thực sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn vùng Tây Nguyên, cần bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cải cách thể chế với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là ở cấp cơ sở, nơi trực tiếp tiếp xúc với người dân, giải quyết các vấn đề cần thiết trong thực tiễn đời sống hằng ngày của Nhân dân. Một chính quyền cơ sở mạnh không chỉ là chính quyền có tổ chức hợp lý, cán bộ có năng lực và đạo đức công vụ, mà còn phải là chính quyền biết lắng nghe, biết đồng hành cùng nhân dân, đặc biệt là trong giải quyết những vấn đề phức tạp như quản lý đất đai, tín ngưỡng, sinh kế và bản sắc văn hóa dân tộc.

Khi mô hình chính quyền hai cấp được tổ chức khoa học, vận hành hiệu quả và gắn liền với các giải pháp bảo đảm quốc phòng – an ninh, quản lý địa bàn chặt chẽ, tạo dựng cơ chế tương tác hai chiều giữa chính quyền và người dân, nó sẽ trở thành nền tảng vững chắc để củng cố niềm tin xã hội, xây dựng thế trận lòng dân và tạo ra sự ổn định chính trị lâu dài. Đây chính là tiền đề để thúc đẩy phát triển bền vững toàn diện khu vực Tây Nguyên – vùng đất thiêng liêng, giàu tiềm năng nhưng cũng ẩn chứa không ít thách thức thành một cực tăng trưởng mới, đóng vai trò trọng yếu trong bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 181.
2. Bộ Nội vụ (2025). Tờ trình dự thảo Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi). Hà Nội.
3. Tổng cục Thống kê (2025). Niên giám thống kê Việt Nam 2024. H. NXB Thống kê.
4. Bộ Công an (2024). Báo cáo tình hình an ninh trật tự địa bàn Tây Nguyên 2021 – 2023, Hà Nội.
5. UBND tỉnh Gia Lai (2024). Báo cáo cải cách hành chính giai đoạn 2021- 2024. Gia Lai.
6. Sở Nội vụ Lâm Đồng (2024). Khảo sát hiệu quả mô hình chính quyền hai cấp. Lâm Đồng.
7. Bộ Nội vụ (2025). Công văn số 006/BNV-CQĐP ngày 01/3/2025 về việc rà soát, báo cáo về số lượng, chất lượng cán bộ, công chức cấp xã.