Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

ThS. Bạch Thị Hảo
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Đồng Nai

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích thực trạng việc thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực như một khâu trọng yếu bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật và tính liêm chính của hệ thống chính trị. Trong quá trình này, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng giữ vai trò quan trọng, cần thiết. Trên cơ sở đó bài viết đề xuất các nhóm giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ thu hồi, thu hẹp khoảng cách thất thoát và thu hồi; củng cố niềm tin của Nhân dân và góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Từ khóa: Kiểm tra, giám sát, hệ thống chính trị, tham nhũng, thu hồi tài sản.

1. Đặt vấn đề

Tham nhũng, tiêu cực trong hệ thống chính trị là một trong những nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của chế độ, làm suy giảm niềm tin của Nhân dân. Trong các giải pháp phòng, chống tham nhũng, việc thu hồi tài sản giữ vị trí quan trọng, vì nếu chỉ xử lý hành vi mà không thu hồi được tài sản thì động cơ phạm tội chưa bị triệt tiêu, công bằng xã hội chưa được khôi phục.

Ở Việt Nam, mặc dù thực tiễn triển khai công tác này đã có chuyển biến tích cực, song kết quả thu hồi tài sản chưa tương xứng kỳ vọng, tỷ lệ thu hồi còn thấp và còn nhiều vướng mắc. Trước tình hình đó, việc phát huy vai trò của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng và việc Bộ Chính trị ban hành Quy định số 287-QĐ/TW ngày 30/4/2025 nhằm tạo cơ sở pháp lý cho mặt công tác này là hết sức cần thiết. Bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận, quan điểm của Đảng, tiến trình hoàn thiện thể chế, đánh giá thực trạng và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

2. Cơ sở chính trị – pháp lý cho việc thu hồi tài sản tham nhũng thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quyền lực nhà nước tất yếu phải được kiểm soát, bởi nếu buông lỏng sẽ dẫn đến tha hóa, sản sinh đặc quyền, đặc lợi. Kiểm soát quyền lực không chỉ là biện pháp phòng ngừa mà còn là cơ chế giám sát, phát hiện để kịp thời xử lý tham nhũng, qua đó bảo đảm sự trong sạch của bộ máy cầm quyền. Trên cơ sở đó, thu hồi tài sản tham nhũng vừa là biện pháp pháp lý để trừng trị, răn đe, vừa có ý nghĩa xã hội sâu sắc trong việc khắc phục hậu quả, khôi phục công bằng và củng cố niềm tin của Nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1. Do quyền lực Nhà nước là do Nhân dân ủy thác, nên tất yếu phải đặt dưới sự giám sát của Nhân dân, cán bộ, công chức chỉ là công bộc của dân. Người căn dặn: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”2. Trên cơ sở đó, việc thu hồi tài sản tham nhũng không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn là đòi hỏi đạo đức, trả lại cho Nhân dân những gì đã bị chiếm đoạt; đồng thời, khẳng định kỷ luật, kỷ cương và tính liêm chính trong hệ thống chính trị.

Công tác kiểm tra, giám sát luôn được Đảng xác định là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu nhằm bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động, giữ vững kỷ luật, kỷ cương góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, kiểm tra, giám sát không chỉ giúp phát hiện vi phạm mà còn tạo cơ chế để thu hồi, khắc phục hậu quả, củng cố niềm tin của Nhân dân.

Từ Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) (năm 2006), Đảng đã xác định “chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng” và định hướng cơ chế khoan hồng đối với người “đã tự giác khai báo và nộp lại tài sản trước khi bị phát hiện”3. Năm 2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 162-QĐ/TW ngày 01/02/2013 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) (30/10/2016) xác định phòng, chống tham nhũng là trọng tâm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) xác định rõ: “Triển khai đồng bộ có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, bảo đảm đúng pháp luật. Thực hiện quyết liệt nghiêm minh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng”4; đồng thời, yêu cầu “tăng cường công tác kiểm tra, giám sát… nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng”5.

Với phương châm chỉ đạo như trên, công tác kiểm tra, giám sát Đảng đã hoàn thiện hệ thống quy định tạo cơ sở cho việc kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, qua đó phòng, chống hiệu quả các hành vi tham nhũng, tiêu cực, cụ thể là: Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ… Điểm nhấn nổi bật nhất là Quy định số 287-QĐ/TW ngày 30/4/2025, lần đầu quy định rõ trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên trong thu hồi tài sản tham nhũng, lãng phí, tiêu cực phát hiện qua kiểm tra, giám sát, tạo cơ chế liên thông giữa kỷ luật Đảng và tố tụng, thi hành án của Nhà nước. Đây là sự khẳng định rõ ràng ở tầm chiến lược cho thấy thu hồi tài sản không chỉ gắn liền với xử lý vi phạm mà còn được xác định là mục tiêu trọng yếu trong kiểm soát quyền lực.

Trên phương diện pháp lý, Nhà nước từng bước được củng cố các quy phạm pháp luật liên quan đến phòng, chống tham nhũng, cụ thể là: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 2007, 2012) đặt nền móng cho kê khai, minh bạch tài sản; đến Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 mở rộng sang khu vực ngoài Nhà nước, thiết lập cơ chế kê khai, xác minh, kiểm soát tài sản, thu nhập; cùng các đạo luật liên quan, như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án dân sự, Luật Phòng, chống rửa tiền.

Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 168/NQ-CP ngày 11/10/2023 về Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng; Nghị định số 130/2020/NĐ-CP về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Cùng với các quy định của Đảng, những căn cứ pháp lý trên có vai trò quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng qua đó thu hồi tài sản do tham nhũng, tiêu cực có được.

3. Thực trạng thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

Thời gian qua, công tác thu hồi tài sản tham nhũng đã có nhiều chuyển biến tích cực nhờ sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng, đặc biệt là thông qua cơ chế kiểm tra, giám sát. Từ khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập năm 2013, công tác kiểm tra, giám sát đã trở thành kênh quan trọng giúp phát hiện sai phạm, kịp thời kiến nghị thu hồi tài sản.

Các văn bản pháp lý mới, trong đó có Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Quy định số 287-QĐ/TW đã tạo hành lang pháp lý ngày càng chặt chẽ, gắn trách nhiệm thu hồi tài sản với trách nhiệm tổ chức đảng và người đứng đầu.

Nhờ sự lãnh đạo, giám sát thường xuyên của Đảng, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực có bước tiến rõ rệt. Giai đoạn 2013-2020, “tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng bình quân đạt 32,04%”6. Hiệu quả thu hồi có sự biến động rõ rệt theo từng năm. Năm 2020, Tổng cục Thi hành án dân sự Bộ Tư pháp cho biết: “kết quả thi hành đối với các khoản bị chiếm đoạt trong vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế chuyển biến lớn với việc thi hành xong trên 15.000 tỷ đồng, chiếm gần 50% trong tổng số thi hành xong của giai đoạn 2013 – 2019”7, nguyên nhân một phần nhờ đẩy nhanh xử lý các vụ tồn đọng.

Năm 2021, hiệu quả giảm mạnh khi “tổng số tiền phải thi hành trong các vụ án tham nhũng, kinh tế là trên 72 nghìn tỷ đồng, nhưng mới thu được trên 4 nghìn tỷ đồng”8, do xuất hiện nhiều đại án giá trị rất lớn, tài sản phức tạp, khó định giá. Từ năm 2022, hiệu quả phục hồi rõ rệt trở lại: “Đã thi hành xong 1.895 việc, tương ứng với 15.989 tỷ 592 triệu đồng, tăng hơn 11.895 tỷ đồng, tương đương tăng 290,51% về tiền so với năm 2021”9; đà tăng tiếp tục năm 2023 với “trên 20.000 tỷ đồng từ thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, tăng gần 4.500 tỷ so với năm 2022”10. Đặc biệt, năm 2024 ghi nhận kết quả cao nhất từ trước đến nay: “đã thi hành xong hơn 116.531 tỷ đồng, tăng hơn 27.119 tỷ đồng (tăng 30,33%) so với cùng kỳ năm 2023; đạt tỷ lệ 51,84% (tăng 5,06%) so với cùng kỳ năm 2023, cao hơn 5,39% so với chỉ tiêu được giao”11.

Trong 6 tháng đầu năm 2025, công tác thu hồi tài sản tham nhũng tiếp tục đạt nhiều dấu ấn nổi bật, được thể hiện trong báo cáo tại Phiên họp thứ 28 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày 07/7/2025: “trong giai đoạn điều tra, đã tạm giữ, kê biên, phong tỏa, thu giữ số tài sản trị giá trên 313 tỷ đồng và nhiều tài sản có giá trị khác; đặc biệt, trong giai đoạn xét xử, nhiều bị cáo và gia đình tự nguyện nộp lại hàng nghìn tỷ đồng để khắc phục toàn bộ hậu quả vụ án (như vụ án xảy ra tại Tập đoàn FLC, bị cáo Trịnh Văn Quyết và gia đình đã nộp hơn 2.500 tỷ đồng; vụ án xảy ra tại Tập đoàn Phúc Sơn, bị cáo Nguyễn Văn Hậu đã nộp khắc phục toàn bộ hậu quả thiệt hại hơn 1.179 tỷ đồng); trong giai đoạn thi hành án dân sự đã thu hồi gần 7.000 tỷ đồng, nâng tổng số tiền thu hồi được từ khi thành lập Ban Chỉ đạo đến nay là 103.854 tỷ đồng (đạt 51,57%)12.

Trong giai đoạn này, các vụ án điển hình cũng cho thấy, sự khác biệt trong hiệu quả thu hồi: Vụ Việt Á (2021-2022), sự kết hợp giữa phong tỏa/kê biên và vận động nộp khắc phục đã mang lại kết quả “tổng tài sản thu hồi trị giá 1.400 tỷ đồng”13. Vụ Trương Mỹ Lan – Vạn Thịnh Phát: đến cuối tháng 3/2025: “Các cơ quan thi hành án đã thu hồi hơn 8.369 tỷ đồng và 1.000 USD trong vụ án liên quan đến Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, trong tổng số hơn 22.416 tỷ đồng phải thi hành”14, (đã hoàn tất 18/33 quyết định), nhưng vẫn “còn hơn 6.200 tỷ đồng chưa được thi hành trong vụ Vạn Thịnh Phát”15. Trong số tiền đã thu, “hơn 6.855 tỷ đồng là tiền đã thi hành trực tiếp. Đáng chú ý, có đến 6.688 tỷ đồng là từ các cá nhân, tổ chức trả lại cho bà Trương Mỹ Lan nhằm bảo đảm nghĩa vụ dân sự của bà trong vụ án, hệ thống thi hành án phải xác minh “1.120 mã tài sản”16 thế chấp tại Ngân hàng SCB để phân định sở hữu và nghĩa vụ bảo đảm, cho thấy độ phức tạp đặc biệt của vụ án này.

Có thể nhận thấy, công tác thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực ở nước ta đã đạt được những bước tiến quan trọng, nhất là từ khi Đảng tăng cường chỉ đạo và gắn trách nhiệm thu hồi với hoạt động kiểm tra, giám sát. Tỷ lệ thu hồi tài sản có xu hướng ngày càng được cải thiện, nhiều vụ án lớn đã được thu hồi gần như toàn bộ. Thành tựu này phản ánh sự phát huy hiệu lực của hệ thống thể chế, sự chỉ đạo quyết liệt của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng như việc áp dụng kịp thời các biện pháp phong tỏa, kê biên và cơ chế phối hợp liên ngành.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả tích cực, công tác thu hồi tài sản vẫn còn những hạn chế. Ở các vụ án có quy mô lớn, cấu trúc tài sản phức tạp, nhiều tầng nấc pháp nhân và quan hệ bảo đảm chồng chéo, tỷ lệ thu hồi còn thấp. Việc xử lý kéo dài, nhất là trong các vụ có yếu tố quốc tế hoặc bị can bỏ trốn, cho thấy những bất cập trong khâu định giá, thủ tục tố tụng và năng lực truy vết tài sản.

Quy định số 287-QĐ/TW ngày 30/4/2025 mới được ban hành, do đó, cần phải có thời gian để triển khai, phát huy tác dụng tích cực của mình và cần có sự tổng kết, sơ kết để rút kinh nghiệm cho các giai đoạn sau. Thực tiễn trên vừa khẳng định vai trò then chốt của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong việc khởi phát các biện pháp thu hồi, vừa đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực chuyên môn, mở rộng hợp tác quốc tế. Đây là cơ sở thực tiễn trực tiếp cho việc kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng trong giai đoạn tới.

4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

Thứ nhất, về hoàn thiện thể chế nhằm thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực.

Trong Đảng, cần cụ thể hóa Quy định số 287-QĐ/TW năm 2025 vào quy chế công tác của Ủy ban Kiểm tra các cấp theo hướng: (1) Quy định chỉ tiêu bắt buộc về tỷ lệ hoặc giá trị tài sản được bảo toàn ngay tại thời điểm kết luận kiểm tra; (2) Đề xuất thời hạn chuyển giao hồ sơ kiến nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp sang cơ quan nhà nước không quá 5 ngày làm việc; (3) Ban hành mẫu kiến nghị chuẩn hóa kèm hồ sơ tối thiểu để cơ quan tố tụng có thể ra quyết định ngay; (4) Gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, Ủy ban kiểm tra nếu để chậm trễ, gây thất thoát tài sản.

Phía Nhà nước, cần đồng bộ sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án dân sự theo hướng: (1) Rút ngắn thời hạn áp dụng biện pháp bảo toàn tài sản; (2) Chuẩn hóa thẩm quyền phê chuẩn khẩn cấp và quy trình quản lý – định giá – xử lý tài sản; (3) Bổ sung cơ chế tịch thu tài sản khi người phạm tội vắng mặt hoặc đã chết, bảo đảm tiêu chuẩn chứng cứ, cơ chế kháng nghị và bảo vệ bên thứ ba thiện chí.

Thực tiễn các vụ án, như Trương Mỹ Lan – Vạn Thịnh Phát có bị cáo qua đời, dẫn tới phần tài sản liên quan chưa thể xử lý dứt điểm, hay vụ Giang Kim Đạt – Vinashinlines đặt ra tình huống nếu bị can bỏ trốn trót lọt thì tài sản tham nhũng khó có cơ sở pháp lý để tịch thu, cho thấy sự cần thiết phải bổ sung quy định về tịch thu đặc biệt nhằm khắc phục kẽ hở và bảo đảm không để tài sản tham nhũng bị treo hoặc thất thoát.

Thứ hai, nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát về tài chính, tài sản trong Đảng.

Cần thành lập hoặc củng cố bộ phận phân tích tài chính, tài sản thuộc Ủy ban Kiểm tra Trung ương, thí điểm ở một số địa phương với chức năng truy vết dòng tiền, đối chiếu tài sản, thu nhập, lợi ích liên quan. Ủy ban Kiểm tra cần ban hành bộ công cụ nghiệp vụ dùng chung (chẳng hạn danh mục kiểm tra để không bỏ sót thông tin về tài sản; sơ đồ hóa quan hệ sở hữu nhiều lớp để tìm ra chủ sở hữu thực sự; bảng đối chiếu tài sản hiện có với nguồn thu nhập hợp pháp để phát hiện chênh lệch bất minh…). Đồng thời, cần tổ chức đào tạo chuyên sâu cho cán bộ kiểm tra nhằm sử dụng thành thạo các công cụ này.

Về công nghệ, cần đẩy mạnh ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, phân tích giao dịch số; kết nối trực tiếp với cơ quan chuyên trách phòng chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan đăng ký tài sản để đối chiếu nhanh. Nhà nước cần bảo đảm cơ chế cung cấp và chia sẻ cơ sở dữ liệu tài sản, doanh nghiệp, chứng khoán, đất đai… tạo nguồn thông tin đầu vào cho Ủy ban kiểm tra trong phân tích, đối chiếu. Thực tiễn một số vụ án tham nhũng, tiêu cực lớn thời gian qua cho thấy, việc áp dụng biện pháp phong tỏa và vận động khắc phục đã giúp thu hồi đáng kể tài sản, nhưng nhiều giao dịch tài chính phức tạp vẫn chưa được truy vết triệt để.

Thứ ba, tăng cường phối hợp liên ngành do Đảng chỉ đạo, điều phối.

Để kết luận kiểm tra sớm phát huy hiệu lực, cần nghiên cứu thành lập Tổ công tác liên thông về thu hồi tài sản trực thuộc Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, với sự tham gia của Ủy ban kiểm tra, Ban Nội chính, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự, Ngân hàng Nhà nước và các đơn vị liên quan. Tổ công tác này có chức năng điều phối liên ngành, cơ chế phản ứng nhanh, trong thời gian ngắn đối với các kiến nghị áp dụng biện pháp bảo toàn tài sản xuất phát từ kết luận kiểm tra của Đảng.

Cần xây dựng kênh kết nối dữ liệu bảo mật và cơ chế phản ứng nhanh giữa cơ quan kiểm tra của Đảng và cơ quan nhà nước, bảo đảm liên thông, cảnh báo kịp thời các giao dịch bất thường nhằm phát hiện sớm nguy cơ tẩu tán tài sản, đồng thời gắn với chế độ báo cáo định kỳ về kết quả kiến nghị, chuyển giao và thu hồi tài sản, tạo điều kiện cho sự giám sát tập trung, khắc phục tình trạng thông tin rời rạc, thiếu liên thông như hiện nay. Thực tiễn vụ Vạn Thịnh Phát, khi cơ quan chức năng phải xác minh tới hơn 1.100 mã tài sản thế chấp tại Ngân hàng SCB, cho thấy, rõ sự cấp thiết của một cơ chế phối hợp thống nhất, giúp rút ngắn độ trễ và tránh chồng chéo trong xử lý.

Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực.

Về phía Đảng, Ủy ban kiểm tra cần đóng vai trò kích hoạt sớm kênh hợp tác quốc tế thông qua các kiến nghị có căn cứ ngay từ khâu kiểm tra nhằm ngăn chặn tài sản bị tẩu tán ra nước ngoài trước khi có bản án.

Về phía Nhà nước, cần tiếp tục nội luật hóa đầy đủ Công ước UNCAC, đặc biệt là cơ chế công nhận và thi hành lệnh tịch thu của tòa án nước ngoài, áp dụng biện pháp phong tỏa khẩn cấp theo yêu cầu quốc tế, đồng thời chuẩn hóa cơ chế hoàn trả, chia sẻ tài sản trong các vụ việc có yếu tố nước ngoài. Nghiên cứu thiết lập một thiết chế đầu mối ở tầm quốc gia chuyên trách về thu hồi tài sản cần ưu tiên đàm phán, bổ sung điều khoản chia sẻ tài sản thu hồi trong các hiệp định song phương, nhất là với các đối tác có dòng vốn FDI lớn tại Việt Nam.  

Thứ năm, phát huy giám sát gắn với chiến lược dài hạn để thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực.

Trong Đảng, cần đưa chỉ tiêu thu hồi tài sản vào kế hoạch kiểm tra hằng năm của cấp ủy, coi đây là một trong những tiêu chí đánh giá tổ chức đảng và trách nhiệm người đứng đầu. Kết quả thu hồi cần được công khai ở mức phù hợp; đồng thời, có cơ chế bảo vệ người tố giác và khuyến khích khắc phục hậu quả tự nguyện, qua đó tăng cường tính răn đe và củng cố kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.

Trong phạm vi toàn hệ thống chính trị, cần có chiến lược thu hồi tài sản tham nhũng với định lượng rõ ràng: tỷ lệ tài sản được bảo toàn tại thời điểm kết luận kiểm tra; tỷ lệ chuyển hóa tài sản phong tỏa thành tài sản thu hồi; thời gian từ kết luận đến áp dụng biện pháp; mức độ công khai, minh bạch trong báo cáo và giám sát kết quả.

5. Kết luận

Thu hồi tài sản tham nhũng là thước đo quan trọng của hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng; đồng thời, góp phần khắc phục hậu quả kinh tế – xã hội do tham nhũng gây ra và củng cố niềm tin của Nhân dân. Các nhóm giải pháp đề xuất khẳng định công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là điểm khởi phát, tạo nền tảng cho việc kiến nghị và kích hoạt sớm các biện pháp bảo toàn, thu hồi tài sản; đồng thời, bảo đảm sự liên thông với pháp luật của Nhà nước và mở rộng hợp tác quốc tế. Thực hiện nghiêm túc sẽ nâng cao tỷ lệ thu hồi, thu hẹp khoảng cách giữa thất thoát và thu hồi, qua đó góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và giữ vững sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 232.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.  64-65.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X). Nghị quyết Hội nghị lần III về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 145, 97.
6. Giai đoạn 2013 – 2020: Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng bình quân đạt 32,04%. https://baophapluat.vn/giai-doan-2013-2020-ty-le-thu-hoi-tai-san-tham-nhung-binh-quan-dat-3204-post374552.html?utm_source
7. Thu hồi hơn 15.000 tỷ đồng từ các vụ án kinh tế, tham nhũng. https://thanhnien.vn/thu-hoi-hon-15000-ti-dong-tu-cac-vu-an-kinh-te-tham-nhung-1851015696.htm?utm_source
8. Năm 2021: Thu hồi được 4 nghìn tỷ trong 72 nghìn tỷ bị thiệt hại từ các vụ án tham nhũng, kinh tế. https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/nam-2021-thu-hoi-duoc-4-nghin-ty-trong-72-nghin-ty-bi-thiet-hai-tu-cac-vu-an-tham-nhung-kinh-te-189383.html.
9. Thu hồi tài sản tham nhũng tăng 290,51% về tiền so với năm 2021. https://daidoanket.vn/thu-hoi-tai-san-tham-nhung-tang-290-51-ve-tien-so-voi-nam-2021-10236223.html.
10. Năm 2023, thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng đạt trên 20.000 tỷ đồng. https://vov.vn/chinh-tri/nam-2023-thu-hoi-tai-san-trong-cac-vu-an-tham-nhung-dat-tren-20000-ty-dong-post1074706.vov.
11. Năm 2024 thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế cao nhất từ trước đến nay. https://lsvn.vn/nam-2024-thu-hoi-tai-san-trong-cac-vu-an tham-nhung-kinh-te-cao-nhat-tu-truoc-den-nay-a151542.html?utm source.
12. Phiên họp thứ 28 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. https://noichinh.vn/cong-tac-phong-chong-tham-nhung/202507/phien-hop-thu-28-cua-ban-chi-dao-trung-uong-ve-phong-chong-tham-nhung-lang-phi-tieu-cuc-314813/.
13. Vụ Việt Á: Tổng tài sản thu hồi trị giá 1.400 tỷ đồng. https://vietnamfinance.vn/vu-viet-a-tong-tai-san-thu-hoi-tri-gia-1400-ty-dong-d88099.html.
14, 15, 16. Còn hơn 6.200 tỷ đồng chưa được thi hành trong vụ Vạn Thịnh Phát (giai đoạn 1). https://baodautu.vn/con-hon-6200-ty-dong-chua-duoc-thi-hanh-trong-vu-van-thinh-phat-giai-doan-1-d264833.html.