TS. Hoàng Thị Bích Loan
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đã đạt được sự phát triển vượt bậc song cũng đối mặt với tình trạng khan hiếm tài nguyên và ô nhiễm môi trường trầm trọng. Nhằm giải quyết vấn đề này, nhiều quốc gia trên thế giới đang chuyển hướng sang mô hình kinh tế tuần hoàn, hướng tới sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn nhưng nằm rải rác trong các nghị quyết, đề án, nghị định… mà chưa có một khung khổ pháp lý đầy đủ và rõ ràng làm căn cứ cho phát triển kinh tế tuần hoàn. Bài nghiên cứu thực trạng chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển mô hình kinh tế này trong thời gian tới.
Từ khóa: Kinh tế tuần hoàn; chính sách; phát triển bền vững; Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Kinh tế tuần hoàn đang là một xu hướng tất yếu để đạt được mục tiêu phát triển bền vững trong bối cảnh tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng và biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp. Kinh tế tuần hoàn không chỉ đơn thuần là tái chế chất thải, xem chất thải như nguồn tài nguyên mà còn là sự liên kết chặt chẽ giữa các hoạt động kinh tế theo một kế hoạch được tính toán kỹ lưỡng, tạo nên các chu trình khép kín trong nền kinh tế.
Theo dự báo của Chương trình Môi trường Liên Hợp quốc, nếu tiếp tục duy trì mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống, dựa trên quy trình khai thác, sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng là thải bỏ ra môi trường thì đến năm 2030, nhu cầu sử dụng tài nguyên toàn cầu sẽ tăng gấp 3 lần hiện nay, vượt quá khả năng cung cấp của Trái Đất, đồng thời lượng chất thải cũng sẽ vượt quá ngưỡng chịu đựng của môi trường1. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tìm kiếm một mô hình kinh tế mới hiệu quả và bền vững hơn trong việc sử dụng tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm, suy thoái môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Tại Việt Nam, các hoạt động kinh tế từ trước đến nay phần lớn vẫn dựa trên phương thức tiếp cận truyền thống, đó là mô hình kinh tế tuyến tính nên đã dẫn đến sự khan hiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt là gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nhằm đạt được mục tiêu phát triển nhanh chóng và bền vững, dung hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, “không đánh đổi” tăng trưởng kinh tế lấy ô nhiễm và suy thoái môi trường, việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn là một hướng đi phù hợp. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này đòi hỏi phải nhận thức rõ những cơ hội cũng như những thách thức cần vượt qua. Hiện nay, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ngày càng chú trọng đến việc phát triển kinh tế tuần hoàn.
Ngay tại Đại hội XIII của Đảng (2021) đã đề cập cụ thể nội dung về xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường, trong đó ghi nhận chính thức thuật ngữ “kinh tế tuần hoàn” và là cơ sở chính trị quan trọng để Nhà nước hoàn thiện chính sách, pháp luật về vấn đề này.
2. Thực trạng ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn ở nước ta hiện nay
Qua nghiên cứu thực tế, mặc dù Việt Nam chưa có mô hình kinh tế tuần hoàn nào đạt chuẩn mực đầy đủ, nhưng nếu xét về mục đích và bản chất, một số mô hình hoặc phương thức kinh doanh đã thể hiện những đặc điểm của kinh tế tuần hoàn từ khá sớm. Các ngành kinh tế chủ chốt đều có tiềm năng áp dụng kinh tế tuần hoàn vào hoạt động sản xuất – kinh doanh, tạo ra chuỗi giá trị gia tăng hoặc gián tiếp hỗ trợ cho việc triển khai lý thuyết kinh tế tuần hoàn (Bảng 1).
Bảng 1: Biểu hiện kinh tế tuần hoàn theo một số ngành, lĩnh vực ở Việt Nam
| TT | Tên một số ngành, lĩnh vực | Một số biểu hiện của kinh tế tuần hoàn |
| 1 | Nông, lâm, ngư nghiệp | – Mô hình VAC, mô hình VACR trong nông nghiệp…) hướng đến tận dụng Biomas…; mô hình thu gom phế phẩm nông nghiệp, như: thân các loại cây, rơm, vỏ trấu; mô hình bioaquatic trong nuôi trồng thủy sản… |
| 2 | Khai khoáng | – Các hoạt động khai thác khoáng sản có tiềm năng áp dụng các nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn ngay từ giai đoạn thiết kế các dự án khai thác mỏ để sử dụng hiệu quả chất thải từ quá trình khai thác, giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường; tuần hoàn ngay trong quá trình vận hành các hoạt động khai thác, tuyển khoáng. |
| 3 | Công nghiệp chế biến, chế tạo | – Tuần hoàn nước, các nguyên vật liệu… trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã được áp dụng; sản xuất ra các sản phẩm thân thiện với môi trường; hoạt động của lĩnh vực sửa chữa điện, điện tử; các cửa hàng buôn bán đồ cũ; mô hình chuyển từ sản phẩm thành dịch vụ như trong lĩnh vực pin, ắc quy xe điện… |
| 4 | Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải | – Các đơn vị thu gom, phân loại, xử lý chất thải đóng vai trò là trung gian trong thúc đẩy tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải do các hoạt động kinh tế, dân sinh gây ra. Trên thực tiễn đã có nhiều mô hình đã và đang thực hiện theo hướng này, như: các mô hình xử lý chất thải nhựa, ủ, chế biến phân từ rác thải, phát triển năng lượng điện từ rác thải… |
| 5 | Xây dựng và tái chế vật liệu | Tận dụng, tái sử dụng, tái chế các loại chất thải trong quá trình xây dựng,như: đất đá, chất thải rắn từ vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vữa, bê tông, vật liệu kết dính quá hạn sử dụng được tái chế làm vật liệu xây dựng hoặc tái sử dụng làm vật liệu san lấp cho các công trình xây dựng. |
| 6 | Chế biến thực phẩm | Cắt giảm phát thải thông qua các sáng kiến, sáng tạo trong việc chuyển đổi cũng như sử dụng các công nghệ xanh, công nghệ tiên tiến trong quản lý năng lượng hiệu quả, sử dụng năng lượng tái tạo trong các nhà máy chế biến sữa |
| 7 | Kinh doanh lưu trú du lịch | Các cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch vận hành theo cơ chê khai thác, sử dụng tài nguyên và các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ lưu trú, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch |
Nhìn chung, tại Việt Nam, mỗi ngành nghề, lĩnh vực và địa phương đều có những khía cạnh đang hoặc tiềm năng áp dụng các nguyên lý của kinh tế tuần hoàn nhằm hướng đến mục tiêu chung. Trong chuỗi liên kết hướng tới kinh tế tuần hoàn, những nhân tố chủ chốt ban đầu bao gồm các ngành nghề then chốt, tiếp đến là các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ môi trường (đóng vai trò trung gian), các cơ sở, làng nghề tái chế, cửa hàng kinh doanh đồ cũ2. Vì vậy, cần thiết phải có những chính sách phù hợp để thúc đẩy sự tham gia tích cực và sâu rộng của các nhân tố này vào quá trình tuần hoàn; đồng thời,khuyến khích các sáng kiến và mô hình hiện có hoặc sắp triển khai các giải pháp kinh tế tuần hoàn. Bên cạnh đó, để kinh tế tuần hoàn thực sự lan tỏa và trở thành xu thế chủ đạo, cần có cách tiếp cận mang tính hệ thống với sự phối hợp chặt chẽ giữa tất cả các bên liên quan, nhất là ban hành những quy định rõ ràng về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.
(1) Trong sản xuất nông nghiệp. Kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp là việc ứng dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật và tái chế phế phẩm nông nghiệp để tạo ra những sản phẩm an toàn, chất lượng; đồng thời, giảm thiểu lãng phí và ô nhiễm môi trường. Phương thức này cũng góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng về việc tận dụng phụ phẩm và bảo vệ môi trường, từ đó hướng đến nền nông nghiệp xanh, sạch với những sản phẩm thân thiện với môi trường. Kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp chính là một hình thức nông nghiệp sinh thái.
Hiện nay, Việt Nam cũng có nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đã và đang được triển khai ở nhiều quy mô và lĩnh vực khác nhau. Các mô hình, như: vườn – ao – chuồng và rừng – vườn – ao – chuồng đã được áp dụng rộng rãi từ những năm 70 thế kỷ XX. Đây là các mô hình khép kín trong sản xuất nông nghiệp, không chỉ giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, như: đất đai, nước và chất thải mà còn tạo ra sự bền vững trong phát triển. Các phế phẩm nông nghiệp, như: phân bón hữu cơ từ chất thải động vật và thực vật được tái sử dụng để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Trong lĩnh vực công nghiệp, kinh tế tuần hoàn cũng đã được áp dụng ở nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là trong việc tận dụng các phế phẩm và phụ phẩm từ quá trình sản xuất3.
(2) Trong sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Thời gian qua, một số các doanh nghiệp đã đầu tư vào khai thác năng lượng tái tạo, như: năng lượng mặt trời và gió, kết hợp với việc tận dụng phế phẩm (gỗ từ nông nghiệp) hay việc áp dụng công nghệ để tái chế các sản phẩm phế thải, như: mía đường (chế biến thành rượu hoặc điện) hoặc tro xỉ từ các nhà máy nhiệt điện được sử dụng làm vật liệu xây dựng4.
Mặc dù vẫn còn những trở ngại nhưng ngành năng lượng gió đang dần được mở rộng. Việt Nam cũng có nhiều tiềm năng trong việc phát triển điện sinh khối từ nguồn gỗ phế liệu, phụ phẩm nông nghiệp, rác thải đô thị, chất thải chăn nuôi và các loại chất hữu cơ khác.
(3) Trong tiêu dùng bền vững. Việc ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn không chỉ trong sản xuất mà còn trong tiêu dùng và tiêu dùng xanh, tiêu dùng bền vững chính là xu hướng tiêu dùng mới nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn. Việc thực hiện lựa chọn sản phẩm, các dịch vụ thân thiện với môi trường và sử dụng tái chế, sử dụng bao bì xanh, xử lý rác thải đúng cách… đã giúp cho việc tiêu dùng xanh trở thành hoạt động của con người hướng đến bảo tồn, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh cho nền kinh tế. Các sản phẩm thân thiện môi trường, như ống hút cỏ, túi tái chế hay dịch vụ kinh tế chia sẻ, như: Grab và Airbnb, không chỉ tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên mà còn góp phần giảm lượng rác thải ra môi trường5.
Như vậy, một số mô hình kinh tế tuần hoàn đã được triển khai từ khá sớm tại Việt Nam và mang lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên, phần lớn kinh tế tuần hoàn ở nước ta vẫn còn ở quy mô nhỏ, chỉ được áp dụng hạn chế trong một số ngành nghề và doanh nghiệp, chưa tạo ra sức ảnh hưởng rộng khắp trong cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội.
3. Một số chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
3.1. Nhóm chính sách thuế, phí
Các chính sách về thuế, phí đóng vai trò là công cụ điều tiết quan trọng và được áp dụng phổ biến trong việc thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trên toàn cầu. Bởi lẽ, những chính sách này trực tiếp gia tăng hiệu quả kinh tế cho các hoạt động được hưởng ưu đãi thuế. Trong cơ chế thị trường, có rất nhiều loại thuế, phí khác nhau và đều có thể kết hợp các chính sách khuyến khích kinh tế tuần hoàn bằng cách giảm nhẹ nghĩa vụ tài chính trong các hoạt động kinh tế liên quan. Phạm vi áp dụng và mức độ ưu đãi của các chính sách thuế, phí sẽ quyết định hiệu quả của các chính sách thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 đã tạo nên bước chuyển biến quan trọng trong phương thức tiếp cận công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường; đặc biệt, tập trung vào việc đánh thuế đối với những hoạt động gây ô nhiễm góp phần thay đổi nhận thức của con người về môi trường, đồng thời huy động thêm nguồn lực cho ngân sách nhà nước để phục hồi hệ sinh thái.
Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1990 đã đặt nền móng pháp lý quan trọng góp phần vào việc bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên một cách tiết kiệm, hợp lý, hiệu quả; đồng thời bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tiếp đến, Pháp lệnh Thuế tài nguyên (sửa đổi, bổ sung năm 1998), có hiệu lực từ ngày 01/6/1998, thay thế cho Pháp lệnh Thuế tài nguyên năm 1990 và tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung vào năm 2008 để phù hợp hơn với tình hình thực tiễn và yêu cầu quản lý, khai thác tài nguyên. Sau gần một năm, Luật Thuế tài nguyên năm 2009 được ban hành (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010), đã kế thừa và pháp điển hóa các quy định về thuế tài nguyên, khắc phục những hạn chế của chính sách thuế tài nguyên trước đó, tăng cường quản lý nhà nước đối với tài nguyên, bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả; bảo vệ môi trường và góp phần ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước.
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2013 và các văn bản pháp quy hiện hành quy định ưu đãi thuế suất 10% vĩnh viễn cho các dự án đầu tư trong lĩnh vực môi trường; miễn thuế tối đa 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm tiếp theo cho các doanh nghiệp mới thành lập hoạt động trong lĩnh vực môi trường. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 (có hiệu lực từ ngày 01/10/2025) cũng có những quy định ưu đãi cho 4 nhóm thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường được miễn thuế.
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 cũng có quy định miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, phương tiện, dụng cụ, vật tư sử dụng trực tiếp trong hoạt động thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải; sản xuất năng lượng sạch và năng lượng tái tạo.
Có thể nhận thấy, quá trình “xanh hóa” hệ thống chính sách thuế của Việt Nam trong thời gian qua đã góp phần hình thành khung pháp lý khá đồng bộ, phát huy tác dụng của từng loại thuế, phí trong việc đạt được các mục tiêu liên quan đến kinh tế tuần hoàn.
3.2. Nhóm chính sách tín dụng xanh
Chính sách tín dụng xanh nhằm hỗ trợ bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn đã được ban hành. Các khoản vay phục vụ cho các mục tiêu này được hưởng lãi suất ưu đãi thông qua một số quỹ hoặc chương trình, như: Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Chương trình sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020. Mức lãi suất này thấp hơn đáng kể so với lãi suất vay thương mại, góp phần thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.
Bảng 2. Các chính sách tín dụng cho phát triển kinh tế tuần hoàn của Việt Nam
| Văn bản chính sách | Nội dung khuyến khích phát triển kinh tế tuần hoàn |
| Luật Sử dụng nănglượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010 | – Tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng; đầu tư dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất bằng công nghệ tiết kiệm năng lượng được ưu đãi, hỗ trợ.- Các ưu đãi theo quy định của pháp luật về đất đai.- Được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Phát triển, Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ bảo vệ môi trường vàđược hỗ trợ từ Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao, Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. |
| Quyết định số37/2011/QĐ-TTgngày 29/6/2011 về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam | – Các dự án điện gió và công trình đường dây và trạm biến áp để đấu nối vớilưới điện quốc gia được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của pháp luật hiện hành áp dụng đối với dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt ưuđãi đầu tư (Điều 13).- Hỗ trợ giá điện đối với dự án điện gió nối lưới:+ Nhà nước hỗ trợ giá điện cho Bên mua điện đối với toàn bộ sản lượng điệnmua từ các nhà máy điện gió là 207 đồng/kWh (tương đương 1,0 UScents/kWh) thông qua Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam (Điều 14).+ Các dự án điện gió được hưởng các ưu đãi theo quy định hiện hành về tín dụng đầu tư của Nhà nước. (Điều 12.b). |
| Quyết định số24/2014/QĐ-TTgngày 24/3/2014 và Văn bản hợp nhất số 51/VBHN-BCT ngày 05/5/2020 về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện sinh khốitại Việt Nam | – Các dự án điện sinh khối và công trình đường dây và trạm biến áp để đấu nối với lưới điện quốc gia được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của pháp luật hiện hành áp dụng đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư. |
| Nghị định số08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 về hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 | – Ưu đãi dự án đầu tư thuộc ngành, nghề thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải, bao gồm: xử lý và tiêu hủy chất thải rắn (rác thải); thu gom chất thải rắn (rác thải); thu gom, xử lý nước thải; tái chế hoặc tái sử dụng chất thải.- Nhà nước thực hiện ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, vốn; miễn, giảm thuế, phí đối với hoạt động bảo vệ môi trường; trợ giá, trợ cước vận chuyển đối với sản phẩm thân thiện môi trường và các ưu đãi, hỗ trợ khác đối với hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật. |
| Nghị định số80/2024/NĐ-CP ngày 03/7/2024 quy định về cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo với khách hàng sử dụng điện lớn | – Đáp ứng xu hướng sử dụng năng lượng sạch của khách hàng sử dụng điện; góp phần thu hút đầu tư vào việc phát triển bền vững năng lượng tái tạo nhằm bảo vệ môi trường.- Cơ chế mua bán điện trực tiếp khuyến khích nhà đầu tư phát triển năng lượng tái tạo, giúp các doanh nghiệp sản xuất sớm có được chứng chỉ năng lượng tái tạo, chứng chỉ giảm phát thải carbon – điều kiện để tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa khi xuất khẩu ra thị trường quốc tế. |
Ngoài ra, tiếp tục triển khai Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam (Quyết định số1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 và Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng đã triển khai các nội dung liên quan đến phát triển ngân hàng xanh, tín dụng xanh.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí mê-tan của ngành Giao thông vận tải (Quyết định số 876/QĐ-TTg ngày 22/7/2022), quy định toàn bộ lộ trình phát thải ròng bằng 0 của ngành Giao thông vận tải bao gồm tất cả 5 phương thức vận tải đến năm 2050. Theo đó, Chính phủ đã ban hành các chính sách hỗ trợ cho việc chuyển đổi năng lượng và quy trình chuyển đổi về xe điện. Tuy nhiên, theo các chuyên gia các chính sách hỗ trợ hiện nay còn khá ít để có thể khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng cũng như sản xuất xe điện.
Việc phát hành trái phiếu xanh mang ý nghĩa rất lớn không chỉ với các tổ chức phát hành mà còn với nhà đầu tư, cộng đồng, môi trường và chính phủ. Trái phiếu xanh giữ vai trò chủ chốt trong việc cung cấp nguồn vốn cho các dự án bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, qua đó góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững của quốc gia. Vì vậy, ngày 04/12/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 163/2018/NĐ-CP – đây được coi là khung pháp lý đầu tiên cho trái phiếu xanh tại Việt Nam và cung cấp đòn bẩy để khuyến khích đầu tư hơn nữa vào các dự án xanh trong khu vực tư nhân. Ngày 31/12/2020, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 153/2020/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 163/2018/NĐ-CP) đã quy định thêm về chào bán riêng lẻ và kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế. Ngoài ra, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng chính thức công nhận trái phiếu xanh như một công cụ kinh tế quan trọng đối với bảo vệ môi trường.
3.3. Nhóm chính sách mua sắm công xanh
Song song với việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, giảm phát thải carbon, Việt Nam đã và đang không ngừng hoàn thiện các chiến lược, kế hoạch và chương trình hành động nhằm hướng tới một nền kinh tế xanh, ít phát thải carbon, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu tại Quyết định số 888/QĐ-TTg ngày 25/7/2022; Chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050; Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 về Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Đặc biệt, Luật Đấu thầu năm 2023 đã được ban hành, trong đó bổ sung nội dung mua sắm công xanh nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, tăng trưởng xanh. Các yêu cầu về bảo vệ môi trường đã được đưa vào trong hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu đối với nhà đầu tư và nhà thầu.
Tuy nhiên, yêu cầu giải pháp hạn chế các tác động đến môi trường của dự án, nhất là giai đoạn thi công. Chẳng hạn, với lựa chọn nhà đầu tư, Thông tư số 09/2021/TT-BKHĐT về hướng dẫn lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) và dự án đầu tư có sử dụng đất đưa ra yêu cầu về lồng ghép các tiêu chí môi trường vào quá trình lựa chọn nhà đầu tư, như: yêu cầu về đánh giá tác động tiêu cực đối với môi trường và biện pháp khắc phục; yêu cầu về xem xét, đánh giá các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường theo quy định bảo vệ môi trường… Tuy nhiên, tiêu chí môi trường cụ thể lại chưa được hướng dẫn, gây khó khăn cho bên mời thầu.
3.4. Đánh giá thực trạng chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Một là, chính sách, pháp luật về kinh tế tuần hoàn còn manh mún, thiếu đồng bộ, nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp quy khác nhau; chưa được quy định một cách chi tiết, đầy đủ; thiếu sự liên kết với các văn bản pháp luật có liên quan; tính hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật còn thấp. Hiện nay, vẫn chưa có bộ tiêu chí rõ ràng để nhận diện, đánh giá và phân loại mức độ phát triển kinh tế tuần hoàn, từ đó khó có thể xác định được mức độ tiếp cận kinh tế tuần hoàn trong các ngành, lĩnh vực và địa phương.
Hai là, nội dung các văn bản chính sách còn chung chung, thiếu tính phổ biến, đa số mới chỉ dừng lại ở các định hướng chính sách, văn bản pháp luật ở dạng khái niệm nên việc áp dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn. Điều này cản trở việc định hướng hành vi của người sản xuất và người tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường – những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Ba là, một số chính sách còn tồn tại những bất cập, chồng chéo, thiếu rõ ràng, thủ tục hành chính phức tạp; nội dung một số chính sách thiếu cơ sở pháp lý, thiếu tính thực tiễn, khó áp dụng; chưa tạo ra bước đột phá để thực sự khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, khiến chính sách kém hấp dẫn.
Bốn là, hệ thống công cụ của các chính sách bảo vệ môi trường bảo vệ môi trường còn thiếu đồng bộ, chưa đủ mạnh để điều tiết hiệu quả hành vi của các chủ thể kinh tế theo hướng phát triển kinh tế tuần hoàn. Ví dụ, mức thuế đánh vào một số mặt hàng gây ô nhiễm môi trường còn thấp, thậm chí không đáng kể. Đồng thời, các chính sách ưu đãi, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giảm thiểu ô nhiễm, giảm phát thải khí nhà kính còn thiếu cụ thể, chưa đủ sức hấp dẫn.
Năm là, thiếu một số chính sách quan trọng hỗ trợ toàn diện cho hoạt động tái chế; hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách khung chưa đầy đủ và kịp thời. Một trong những chính sách quan trọng đó là chính sách kiểm soát chất lượng của hoạt động tái chế, một công cụ cần thiết để bảo đảm hoạt động tái chế phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững.
Sáu là, chính sách mua sắm công xanh còn nhiều hạn chế. Việt Nam đã ban hành các chính sách về mua sắm xanh, mua sắm công xanh, từng bước hình thành thị trường mua sắm xanh. Các yêu cầu về bảovệ môi trường đã được đề cập trong hồ sơ mời thầu đối với nhà đầu tư và nhà thầu. Tuy nhiên, các quy định hiện hành chủ yếu mới chỉ yêu cầu đưa ra giải pháp hạn chế tác động đến môi trường của dự án, đặc biệt là trong giai đoạn thi công.
4. Một số định hướng, gợi ý hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Thứ nhất, nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định phát triển kinh tế tuần hoàn là một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, trong đó đặc biệt lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; loại bỏ các dự án gây ô nhiễm môi trường và chú trọng bảo đảm chất lượng môi trường sống; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật Tiết kiệm và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
Liên quan đến nội dung khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam đã sớm có quy định và ban hành khá nhiều các văn bản pháp luật điều chỉnh về nội dung này. Các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan có thể chia thành 2 nhóm:
(1) Nhóm văn bản quy định chung về tiết kiệm, sử dụng hiệu quả đối với tất cả các loại tài nguyên, như: Hiến pháp, Luật Thực hành Tiết kiệm chống lãng phí, Luật Bảo vệ môi trường, Chiến lược sản xuất sạch hơn trong ngành công nghiệp, Luật Thuế tài nguyên, Luật Thuế bảo vệ môi trường, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả;
(2) Nhóm văn bản quy định cụ thể về sử dụng tiết kiệm, hiệu quả đối với từng loại tài nguyên, như: Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thủy sản, Luật Đa dạng sinh học….
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện khung chính sách thúc đẩy các hoạt động tuần hoàn, tái chế, tái sử dụng chất thải.
Chính phủ cần sớm hoàn thiện khung chính sách thúc đẩy các hoạt động tuần hoàn, tái chế, tái sử dụng. Hiện nước ta còn thiếu hụt các khung chính sách hỗ trợ phù hợp và hiệu quả cho tái chế chất thải.Các doanh nghiệp tái chế ở Việt Nam chưa thực sự được hỗ trợ bởi một khung pháp lý phù hợp, đặc biệt là trong các vấn đề giám sát sản xuất, giám sát hiệu quả hoạt động và chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp cũng như hỗ trợ doanh nghiệp trên mọi phương diện hoạt động. Ngược lại, các doanh nghiệp vẫn còngặp nhiều khó khăn với các cơ quan quản lý do sự nhạy cảm của ngành nghề.
Thứ tư, nhóm giải pháp xây dựng khung chính sách và chỉ số đo lường hỗ trợ phát triển kinh tế tuần hoàn.
Để triển khai có hiệu quả các mô hình kinh tế tuần hoàn cho các ngành, lĩnh vực, trước tiên cần xây dựng bộ chỉ số kinh tế tuần hoàn nhằm định hướng quá trình chuyển đổi, cung cấp thông tin cho việc xây dựng và giám sát kết quả chính sách và theo dõi tiến độ thực hiện các mục tiêu. Các chỉ số đo lường có vai trò khác nhau trong việc hỗ trợ và hướng dẫn việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn, như: đo lường quá trình hoặc tác động của việc chuyển đổi. Có bốn nhóm chỉ tiêu cần phải có cho bộ chỉ số kinh tế tuần hoàn, bao gồm: (1) Các chỉ số về vật liệu và dòng chảy của chất thải; (2) Các chỉ số về tác động môi trường; (3) Các chỉ số về tác động kinh tế – xã hội; (4) Các chỉ số về chính sách và quá trình thực hiện. Việc xây dựng khung chính sách kinh tế tuần hoàn cho quốc gia và địa phương, do đó cần dựa trên các chỉ số đo lường này.
Thứ năm, hoàn thiện khung chính sách về xây dựng và vận hành thị trường carbon trong nước, từng bước kết nối với thị trường quốc tế.
Thị trường carbon dần được định hình rõ nét hơn, tăng khả năng tương thích với các cơ chế định giá tín chỉ carbon quốc tế, tạo cơ hội liên kết với thị trường tín chỉ carbon trên thế giới và khu vực, nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đây còn là một cơ chế tạo nguồn lực để thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ phát thải thấp, hướng đến nền kinh tế trung hòa carbon, thúc đẩy doanh nghiệp chú trọng đầu tư chuyển đổi công nghệ để giảm thải khí carbon trong quá trình sản xuất. Vì vậy, để thực hiện được mục tiêu tổ chức và phát triển thị trường tín chỉ carbon, việc xây dựng khung pháp lý mang tính phổ quát vẫn là một trong những nhiệm vụ tiên quyết. Bên cạnh đó, cần phải đào tạo đội ngũ, năng lực quản lý, tổ chức vận hành thị trường carbon. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đáp ứng việc sẵn sàng tham gia thị trường carbon. Xác định tổng hạn ngạch phát thải và phân bổ cho các lĩnh vực, doanh nghiệp, xác định các lĩnh vực, dự án tiềm năng.
Thứ sáu, hoàn thiện chính sách mua sắm công xanh.
Để thúc đẩy mua sắm công xanh, quan trọng nhất là cần phải có hệ thống chính sách, quy định pháp luật đầy đủ, thống nhất. Một hành lang pháp lý đầy đủ sẽ tạo điều kiện để cơ quan, đơn vị thực hiện mua sắm công có thể thực hành tốt việc mua sắm công xanh. Các quy định pháp luật chặt chẽ cũng là căn cứ để các bên có nhiệm vụ thực hiện vai trò giám sát của mình. Việt Nam đã ban hành các chính sách về mua sắm xanh, mua sắm công xanh, từng bước hình thành được thị trường mua sắm xanh. Các yêu cầu về bảo vệ môi trường đã được đề cập trong các hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu đối với nhà đầu tư và nhà thầu.
5. Kết luận
Việt Nam là quốc gia tiên phong trong ASEAN đưa quy định về kinh tế tuần hoàn vào Luật Bảo vệ môi trường và nhiều văn bản pháp luật khác nhằm thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong mọi lĩnh vực, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Ở Việt Nam, kinh tế tuần hoàn được coi là một giải pháp then chốt để thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên hiệu quả và bền vững, đồng thời bảo vệ môi trường. Mô hình kinh tế này hoàn toàn phù hợp với các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trong bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước, quan điểm về kinh tế tuần hoàn lần đầu tiên được đề cập trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng năm 2021, đặt ra mục tiêu phát triển bền vững với nội dung khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất. Rõ ràng, việc xây dựng nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững đã trở thành một trong những định hướng chiến lược của Đảng trong giai đoạn 2021 – 2030, là quan điểm chủ đạo trong các chủ trương, chính sách nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Chú thích:
1. Kinh tế tuần hoàn – Cơ hội và định hướng sản xuất, kinh doanh. https://trungtamwto.vn/chuyen-de/22554-kinh-te-tuan-hoan-co-hoi-va-dinh-huong-san-xuat-kinh-doanh.
2. Giới thiệu khung pháp lý thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam. https://tapchimoitruong.vn/phap-luat–chinh-sach-16/gioi-thieu-khung-phap-ly-thuc-hien-kinh-te-tuan-hoan-tai-viet-nam-26304.
3, 4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam hiện nay. https://kinhtevadubao.vn/day-manh-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-o-viet-nam-hien-nay-30757.html.
5. UNIDO (2022). Báo cáo Khu Công nghiệp sinh thái. Vienna: UNIDO.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Nguyễn Anh Tuấn (2023). Kinh tế tuần hoàn và những mô hình tiên phong. H. NXB Công thương.
3. Bùi Quang Trung, Phạm Hữu Năm (2020). Một số giải pháp thúc đẩy phát triển nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam. Tạp chí Tài chính, Kỳ 2 (6/2020).
4. Nguyễn Tấn Vinh, Võ Hữu Phước (2022). Phát triển kinh tế tuần hoàn: Kinh nghiệm của một số nước châu Âu và hàm ý chính sách đối với Việt Nam. Tạp chí Cộng sản, số 6/2022.
5. Ellen MacArthur Foundation (2013). Towards the circular economy: Economic and business rationale for an accelerated transition.
6. Peter Lacy, Jessica Long, Wesley Spindler (2020). The circular economy handbook: Realizing the circular advantage. Palgrave Macmilln, UK.
7. Ken Webster (2017). The Circular Economy: A Wealth of Flows – 2nd Edition. Ellen MacArthur Foundation Publishing.
8. Stijn van Ewijk and Julia Stegemann (2023). An Introduction to Waste Management and Circular Economy. UCL



