Nguyễn Hoài Sơn
NCS của Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Tầng lớp trung lưu ở Việt Nam gia tăng nhanh trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn từ năm 2011 – 2020. Chủ trương của Đảng cũng khuyến khích làm giàu theo pháp luật, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội nhằm phát triển văn hóa – xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đầu tư cho sự phát triển của tầng lớp trung lưu không chỉ mang lại những lợi ích cho tăng trưởng kinh tế mà còn có thể góp phần giảm nghèo bền vững, thu hẹp bất bình đẳng xã hội và đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển. Bài viết phân tích cơ sở lý luận về chính sách phát triển tầng lớp trung lưu, trong đó chỉ ra mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự hình thành, phát triển của tầng lớp này. Đồng thời, gợi ý kiến tạo chính sách thúc đẩy, xây dựng xã hội trung lưu trong giai đoạn phát triển mới.
Từ khóa: Tầng lớp trung lưu, xã hội trung lưu, phân tầng xã hội, chính sách.
1. Cơ sở lý luận
Trong tác Chính trị luận viết năm 350 trước Công nguyên, Aristotle quan niệm: “Những kẻ ở hai cực – cực đẹp, cực khoẻ, cực sang, cực giàu và những kẻ ở cực đối nghịch, cực nghèo, cực yếu, cực hạ tiện – là những kẻ khó lòng hành động theo lý trí… Cái tốt nhất nằm ở giữa là số trung bình cộng của cái tập thể đó (xã hội) và là tầng lớp trung lưu”. Triết gia này cho rằng, cộng đồng chính trị tốt nhất được hình thành bởi các công dân thuộc tầng lớp trung lưu. Các nhà nước có nền hành chính tốt, ít mâu thuẫn và bất đồng trong xã hội khi tầng lớp trung lưu lớn mạnh. Một số nghiên cứu cho thấy ngoài hai giai cấp cơ bản của xã hội tư bản là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, còn có “tầng lớp trung sản” với tư cách là tầng lớp trung gian nơi tập hợp những người tiểu tư sản, trí thức và viên chức (Clifford, 1998).
Theo Từ điển Oxford, mục từ tầng lớp trung lưu (Middle Class/Middle Stratum) chỉ những người không quá giàu và cũng không quá nghèo. Tầng lớp này nằm ở giữa tầng lớp thượng lưu và tầng lớp lao động/hạ lưu trong thang phân tầng xã hội. Các nhà kinh tế học xem tầng lớp trung lưu là tập hợp những người có mức thu nhập khá giả như một chủ thể kinh tế độc lập, phân biệt với nhóm giàu có và nhóm nghèo. Thomas Malthus trong tác phẩm Nguyên tắc của kinh tế chính trị, cho rằng có thể là sự nghèo đói tận cùng hay giàu có quá mức đều không có lợi cho sự tiến bộ của nhân loại, khu vực ở giữa trong xã hội có vẻ phù hợp nhất với những tiến bộ về tri thức (Malthus, 1820).
Quan điểm trên cũng được chia sẻ rộng rãi bởi các nhà lịch sử kinh tế, như: Adelman và Morris, Geithman, Murphy, Barrow… khi họ chỉ ra tầm quan trọng của tầng lớp trung lưu đối với sự phát triển, bởi tầng lớp này nắm giữ nhiều vốn con người, có tinh thần khởi nghiệp, cởi mở với các cải cách chính trị, kinh tế và xã hội. Hơn nữa, tầng lớp trung lưu chiếm đa số là một động lực lớn của tiêu dùng nội địa.
Trong công trình “Di động xã hội và cấu trúc giai cấp ở nước Anh hiện đại”, John H. Goldthorpe (1980) đã phân biệt một tầng lớp dịch vụ trẻ gồm những nhà quản lý, các nhà chuyên môn cao cấp với những nhà chuyên môn cấp thấp hơn, như: giáo viên, nhân viên hành chính, kế toán, thư ký và những chủ doanh nghiệp nhỏ. Theo đó, tầng lớp trung lưu trên (upper-middle class) tương ứng với các nhà quản lý và chuyên môn cao cấp; tiếp đó, là tầng lớp trung lưu tương ứng với những tầng lớp dịch vụ trẻ (middle class) và nhóm còn lại là tầng lớp trung lưu dưới (lower-middle class).
Ở Vương quốc Anh, tầng lớp trung lưu trên chiếm khoảng 10% dân số, tầng lớp trung lưu chiếm 20% và tầng lớp trung lưu dưới chiếm khoảng 20% nữa. Tầng lớp trung lưu được phân chia thành các nhóm như tầng lớp trung lưu mới, gồm: những ông chủ; chuyên gia quản lý, hưởng lương; quản trị và quản lý văn phòng và tầng lớp trung lưu cũ, gồm: những người sở hữu nhỏ, tự doanh, nhà thầu, chủ nông trại. Ngoài ra, còn có nhóm trung lưu ngoại biên là những công nhân hưởng lương, những người cung cấp dịch vụ. Các nhà xã hội cơ bản thống nhất sự phát triển của tầng lớp trung lưu gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các quốc gia.
Về phương diện phát triển, khi các quốc gia bước vào giai đoạn hoàn thiện công nghiệp hóa cũng là lúc xây dựng thành công mô hình xã hội trung lưu và ngược lại. Theo đó, mô hình của xã hội sẽ chuyển từ hình dạng kim tự tháp khi bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa (với đông đảo tầng lớp hạ lưu ở dưới đáy, tầng lớp trung lưu và thượng lưu chiếm tỷ lệ nhỏ bé) sang hình dạng quả trám trong giai đoạn hoàn thiện công nghiệp hóa (với tầng lớp trung lưu phình to ra chiếm tỷ trọng lớn nhất, tầng lớp hạ lưu thu hẹp lại).
Nhật Bản trong giai đoạn 1955 – 1965 là điển hình cho mối quan hệ giữa tầng lớp trung lưu và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giai đoạn này tốc độ tăng trưởng của kinh tế Nhật Bản đạt mức trung bình trên 10%. Thập niên 70, thế kỷ XX các sản phẩm điện tử của Nhật Bản đã thống trị thị trường thế giới. Các hãng xe hơi, xe máy trở thành đối thủ của Mỹ và Tây Âu, trong khi công nghiệp đóng tàu của Nhật Bản đứng đầu thế giới. Các lĩnh vực, như: hóa chất, vận tải, luyện thép cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng, đặc biệt là nền công nghiệp hiện đại là môi trường thuận lợi cho sự lớn mạnh của tầng lớp trung lưu Nhật Bản.
Kết quả thống kê về nghề nghiệp từ các cuộc điều tra quốc gia hằng năm và điều tra quốc gia về phân tầng và di động xã hội (SSM) cho thấy: tỷ lệ các nhóm chuyên môn cao, quản lý, nhân viên văn phòng, bán hàng, lao động kỹ thuật,… tăng lên nhanh từ sau thập niên 50. Sự giảm đi nhanh chóng của tầng lớp nông dân và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu làm cho mô hình phân tầng xã hội dịch chuyển từ hình kim tự tháp năm 1955 sang hình quả trám năm 1965 (xem Hình 1).

Thực tiễn phát triển ở nhiều quốc gia cho thấy, xã hội nào có tầng lớp trung lưu chiếm tỷ trọng càng lớn trong cấu trúc xã hội thì mức độ phân cực xã hội càng thấp và sự đồng thuận xã hội càng cao. Theo Presell (1987) thì, “sự tồn tại của tầng lớp trung lưu đông đảo sẽ như là cái giảm xóc về chính trị và kinh tế, nhen nhóm lên hy vọng di động xã hội của con người và trách nhiệm của họ đối với trật tự xã hội, kinh tế và chính trị”. Tầng lớp trung lưu bảo đảm cho sự phát triển ổn định, hài hòa và bền vững của một cấu trúc xã hội hiện đại.
Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy, các nước có tốc độ gia tăng tầng lớp trung lưu càng lớn thì tốc độ giảm nghèo càng nhanh (ADB, 2010). Trong xã hội trung lưu, sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp giảm đi đáng kể và sự tăng lên của tầng lớp trung lưu làm giảm đi các xung đột trong xã hội. Mặt khác, tầng lớp trung lưu cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với diện mạo của toàn xã hội. Họ được coi là cha đẻ của tinh thần khởi nghiệp, lao động chăm chỉ và tiết kiệm, làm cho nền kinh tế hiện đại phát triển năng động và mạnh mẽ. Xu hướng chính trị, sự tham gia xã hội, lối sống, tiêu dùng, thụ hưởng văn hóa và đầu tư cho thế hệ tương lai của tầng lớp này có tác động rất lớn đến toàn xã hội.
2. Tầng lớp trung lưu ở Việt Nam
Kể từ sau Đổi mới, Việt Nam đã chứng kiến những biến đổi sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là biến đổi trong cấu trúc xã hội với sự xuất hiện, kết nối, hòa trộn, đi lên của nhiều nhóm xã hội khác nhau, tạo nên một bức tranh phân tầng xã hội hết sức đa dạng. Sự hình thành và phát triển của tầng lớp trung lưu Việt Nam cũng diễn ra chủ yếu trong giai đoạn này cho dù các nguồn gốc, tiền đề của họ đã xuất hiện từ trước đó, tương tự như tình hình của một số nước châu Á khác.
Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030) đã xác định: khuyến khích làm giàu theo pháp luật, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội nhằm phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ tầng lớp trung lưu xuất hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng.
Dự báo của Viện Nghiên cứu An ninh của Liên minh châu Âu năm 2019, tầng lớp trung lưu sẽ đạt mức 4,9 tỷ người vào năm 2030. Ở Việt Nam, tầng lớp trung lưu đang gia tăng mạnh mẽ nhờ những bước tiến lớn đạt được trong phát triển kinh tế – xã hội, tăng từ 6,8 triệu người (tương đương 7,8% dân số) năm 2011 lên 19,5 triệu người (20,2% dân số) năm 2019 (WB, 2022). Dự báo đến năm 2035 quy mô của tầng lớp trung lưu có thể chiếm khoảng 50-55% số dân cả nước. Sự gia tăng nhanh của tầng lớp trung lưu phản ánh những thành tựu trong tiến trình công nghiệp hóa cũng như công cuộc xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam. Tầng lớp này được kỳ vọng trở thành một lực lượng xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc chấn hưng đất nước (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2021).
Để nhận diện rõ hơn về tầng lớp trung lưu ở Việt Nam hiện nay, các nghiên cứu đã xác định tầng lớp trung lưu thông qua tiêu chí nghề nghiệp. Theo đó, nghề nghiệp là điểm xuất phát hữu ích nhất để người ta có được những nguồn lợi tài chính, địa vị xã hội và có ý nghĩa lâu dài đối với thế hệ con cái. Đồng thời, nghề nghiệp là nơi “quy tụ” và “hội tụ” tương đối đầy đủ các loại nguồn lực, nguồn lợi, tài sản và vị trí xã hội của mỗi cá nhân. Các loại nguồn lực, nguồn lợi, tài sản và vị trí xã hội thường gắn liền với nhau qua nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Sự tăng giảm ngược nhau của tầng lớp nông dân và tầng lớp trung lưu đã làm cho mô hình phân tầng xã hội có tầng lớp trung lưu ở giữa đang phình to ra (nhưng còn nhỏ bé) từ năm 2002 – 2018 và đây là kết quả của sự dịch chuyển lao động, nghề nghiệp từ lĩnh vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam. Xét theo tiêu chí này, lực lượng lao động thuộc tầng lớp trung lưu ở Việt Nam năm 2020 có khoảng 38,5% (Đỗ Thiên Kính, 2021).
Sử dụng cách tiếp cận xã hội học và lấy nghề nghiệp làm xuất phát điểm, khung phân loại gồm có 4 nhóm nghề nghiệp, đó là: (1) Lãnh đạo, quản lý thuộc các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể xã hội, cơ quan hành chính sự nghiệp; (2) Lãnh đạo, quản lý công ty trong khu vực tư nhân; 3) Chủ cơ sở kinh doanh hộ gia đình phi nông nghiệp; 4) Chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, dịch vụ, thương mại. Khung phân loại cũng được xác định,gồm 19 nhóm nghề, bao gồm: quản lý nhà nước bậc siêu cao; chuyên môn bậc siêu cao; chủ sở hữu tư nhân phi nông nghiệp bậc siêu cao; nông dân bậc siêu cao, quản lý nhà nước bậc cao; chuyên môn bậc cao; chủ sở hữu tư nhân phi nông nghiệp bậc cao; nông dân bậc cao; quản lý nhà nước bậc trung; chuyên môn bậc trung; chủ sở hữu tư nhân phi nông nghiệp bậc trung; nông dân bậc trung – cao; quản lý nhà nước bậc thấp; chuyên môn bậc thấp; chủ sở hữu tư nhân phi nông nghiệp bậc thấp; nông dân bậc trung thấp; lao động (công nhân) có kỹ năng; lao động phi nông nghiệp giản đơn; nông dân bậc thấp (Bùi Thế Cường, 2017).
Từ các tiếp cận kinh tế học, các nghiên cứu về tầng lớp trung lưu cũng đạt được những kết quả hết sức quan trọng. Theo nghiên cứu của Lê Kim Sa và các cộng sự (2014, 2015, 2017, 2022) đề xuất cách tiếp cận đa chiều với ba chỉ báo cơ bản đó là thu nhập (được xác định ở mức trên hai lần ngưỡng nghèo), giáo dục (được xác định bởi học vấn của ít nhất một thành viên hộ gia đình phải từ trung học phổ thông trở lên) và chỉ báo nghề nghiệp (được xác định bởi ít nhất có một thành viên hộ gia đình làm nghề phi đơn giản). Việc áp dụng khung phân tích này để tính toán quy mô tầng lớp trung lưu dựa trên bộ số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư Việt Nam. Kết quả phân tích về quy mô, tầng lớp này chiếm khoảng 31,5% dân số vào năm 2012 tăng lên 36,6% năm 2018. Qua đó kiến nghị Chính phủ có những chính sách nhằm gia tăng quy mô của tầng lớp trung lưu ở Việt Nam.
Nghiên cứu về tầng lớp trung lưu ở Việt Nam thực chất là nghiên cứu về gia đình trung lưu bởi khi nói đến một cá nhân thuộc tầng lớp trung lưu thì đã hàm ý đây là một người đã trưởng thành, có gia đình và vị thế xã hội nhất định. Theo đó, những hộ gia đình thuộc mẫu nghiên cứu có thu nhập và học vấn ở mức trung bình và không làm các nghề nghiệp lao động giản đơn. Cách tiếp cận đa chiều được xác định kết hợp giữa tiêu chí thu nhập và học vấn, trong đó, thu nhập làm chỉ báo gốc để xác định và đo lường nhóm gia đình trung lưu 1 và thu nhập/học vấn để đo lường, phân tích nhóm gia đình trung lưu.
Nghiên cứu của tác giả về gia đình trung lưu, thường có quy mô, cấu trúc, lối sống theo hướng hiện đại, trong đó khoảng 70% có từ 2 – 4 người, thường là gia đình hạt nhân, có 2 vợ chồng và 2 con, 30% các gia đình còn lại có từ 5 người trở lên; có học vấn trung học phổ thông trở lên và có mặt ở hầu hết các nhóm nghề nghiệp. Về quan hệ gia đình, trong các gia đình trung lưu, mô hình quan hệ vợ – chồng có xu hướng gia tăng mức độ bình đẳng giới với mô thức ứng xử “vợ chồng cùng nhau quyết định”. Tương tự, mô hình “cha mẹ con cái cùng nhau ra quyết định” trong các vấn đề của con cái cũng là xu hướng chủ đạo.
Gia đình trung lưu là một loại nguồn lực đặc biệt, đa dạng đối với quá trình phát triển kinh tế, nhất là ở khía cạnh vốn/nguồn lực con người, cung ứng lao động trình độ cao. Họ cũng là những chủ thể cung ứng trực tiếp dịch vụ, vốn đầu tư, đóng thuế, tạo việc làm và sản xuất hàng hóa trong phạm vi kinh tế hộ gia đình. Đây cũng là đơn vị tiêu dùng quan trọng của nền kinh tế không chỉ bởi số lượng mà còn do sức mua. Các gia đình này rất quan tâm tới các vấn đề thời sự và chú ý nhiều tới các bình luận chính trị – xã hội, kinh doanh, thị trường. Đáng chú ý là các hoạt động mang nhiều tính phản biện chưa thu hút các gia đình trung lưu, thể hiện tính tích cực xã hội, nhận thức về quyền và trách nhiệm xã hội còn khá hạn chế.
Về chiều cạnh văn hóa, các gia đình trung lưu thường ưu tiên cho các hoạt động thuộc phạm vi bên trong gia đình hơn là những hoạt động mang tính văn hóa gắn kết giữa gia đình với cộng đồng xã hội, trong khi họ thường được kỳ vọng là những “hạt giống” khỏe mạnh giúp nâng cao chất lượng đời sống văn hóa – xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển văn hóa quốc gia.
Các gia đình trung lưu ở Việt Nam hiện nay có thể là “lớn” nhưng chưa “mạnh” về chất trong lĩnh vực văn hóa – xã hội và trong tương tác với quá trình phát triển, nguyên nhân là do bối cảnh xã hội Việt Nam đang chuyển đổi cũng như các gia đình trung lưu đang trong quá trình khẳng định vai trò, vị thế của mình trong tiến trình đó. Tầng lớp trung lưu ở Việt Nam chưa thực sự là bệ đỡ cho ổn định xã hội (Lê Kim Sa, 2022).
3. Kết luận và khuyến nghị chính sách phát triển
Ở Việt Nam, nhóm trung lưu thấp gia tăng nhanh gắn với các thành tựu giảm nghèo song việc mở rộng quy mô nhóm trung lưu giữa và trung lưu cao khó khăn hơn rất nhiều, do đó, tầng lớp trung lưu khá bấp bênh, dễ tổn thương và tái nghèo khi gặp các rủi ro xã hội. Nếu không có các chính sách cụ thể để nuôi dưỡng, hỗ trợ và phát triển tầng lớp trung lưu thì một bộ phận không nhỏ của tầng lớp này sẽ rơi vào nhóm “trung lưu mỏng manh” (tức là chưa hoàn toàn ổn định, theo thuật ngữ của Ngân hàng Thế giới, WB). Tầng lớp trung lưu phát triển thiếu ổn định, không bền vững sẽ là rào cản rất lớn trong quá trình đưa Việt Nam vượt bẫy thu nhập trung bình và trở thành quốc gia phát triển, hiện đại. Chính vì vậy, đầu tư cho sự phát triển của tầng lớp trung lưu không chỉ mang lại những lợi ích cho tăng trưởng kinh tế mà còn có thể góp phần giảm nghèo bền vững, thu hẹp bất bình đẳng xã hội và đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển.
Bốn nghị quyết của Bộ Chính trị được ban hành gần đây: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới), đặc biệt là Nghị quyết số 68-NQ/TW được xem bước tiến đột phá về tư duy phát triển và có tác động lớn đối với sự phát triển của tầng lớp trung lưu trong dài hạn.
Đặc biệt, việc đẩy mạnh triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW có những tác động sâu rộng và trực tiếp đối với sự phát triển của tầng lớp trung lưu, tạo vị thế làm chủ kinh tế cho người sản xuất – kinh doanh và thúc đẩy sự lớn mạnh của đội ngũ doanh nhân trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống chính sách hướng tới phân bổ lại sản xuất, sắp xếp lại lao động nhằm hướng tới nâng cao hiệu suất, hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế. Việc tạo ra nhiều việc làm với mức thu nhập cao và ổn định chính là môi trường thuận lợi nuôi dưỡng tầng lớp trung lưu lớn mạnh.
Trong dài hạn, việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo nghề nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao là giải pháp căn cơ và vô cùng quan trọng. Theo đó, các chính sách này cần bảo đảm mở ra cơ hội tham gia cho mọi tầng lớp xã hội. Nền giáo dục tốt sẽ cung cấp các cơ hội thăng tiến và đây chính là “cây cầu” giúp tầng lớp dưới di động lên tầng lớp trung lưu an toàn và ổn định.
Thực tiễn hiện nay, những nghiên cứu, thảo luận về tầng lớp trung lưu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc nhận diện, phân tích quy mô, cấu trúc, đặc điểm kinh tế, văn hóa – xã hội. Do đó, cần tiếp tục có những nghiên cứu, thảo luận chuyên sâu về mặt chiến lược, chính sách để phát triển tầng lớp trung lưu, nhất là từ góc độ chính sách – quản lý công.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021). Tình hình phát triển tầng lớp trung lưu tại Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Hà Nội.
2. Bùi Thế Cường, Phạm Thị Dung và Tô Đức Tú (2015). Tầng lớp trung lưu ở Thành phố Hồ Chí Minh: Cơ cấu và đặc điểm nhân khẩu. Tạp chí Nghiên cứu phát triển, Viện Nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh, Số 12 (2): 73 – 79.
3. Bùi Thế Cường (2017). Một phân loại giai tầng trung lưu ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tạp chí Xã hội học, số 3/2017.
4. Đỗ Thiên Kính (2014). Cản trở đối với tầng lớp nông dân trong hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Xã hội học, số 2: 4-14.
5. Đỗ Thiên Kính (2018). Phân tầng xã hội và di động xã hội ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Đỗ Thiên Kính (2021). Bất bình đẳng thu nhập và tầng lớp trung lưu ở Việt Nam. Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 10, 39 – 46.
7. Nguyễn Hoài Sơn (2021). Sự hình thành và phát triển của tầng lớp trung lưu ở Hàn Quốc trong thập niên 1960 và 1970. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 10/2021, tr. 43 – 52.
8. Lê Kim Sa (2022). Đặc trưng và vai trò của tầng lớp trung lưu ở Việt Nam. H. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. World Bank (2022). Tổng quan về Việt Nam. https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview.
10. ADB (2010). The rise of Asia’s middle class. Manila: Asian Development Bank.
11. Amsden, Alice (1989). Asia’s Next Giant: South Korea and Late Industrialization. NY, Oxford University Press, tr. 171.
12. Clifford, Mark L (1998). Trouble Tiger: Businessmen, Bureaucrats, and Generals in South Korea. Armonk, NY, tr. 113.
13. David R. Ambaras (1998). Social Knowledge, Cultural Capital, and the New Middle Class in Japan, 1895 – 1912. The Journal of Japanese Studies, Vol. 24, No.1, tr. 7 – 8.
14. Fukutake Tadashi (1989). The Japanese social structure: Its Evolution in the Modern Century – second edition. University of Tokyo press. Tokyo.
15. Funatsu, Tsuruyo and Kazuhiro Kagoya (2003). The middle class in Thailand: the rise of the urban intellectual elite and their social consciousness. The Developing Economies, Vol 41(2): 243 – 263.
16. Goldthorpe, John H (1980). Social Mobility and Class Structure in Modern Britain. Oxford University Press.
17. Koo, Hagen (1991). Middle Classes, Democratization, and Class Formation: The Case of South Korea. Theory and Society (20), tr. 485.
18. Persell, Caroline Hodges (1987). Understanding society. An introduction to sociology. Happer & Row Publishers, New York.
19. Thomas Malthus (1820). Principles of Political Economy. London.
20. Wright Mills (1956). White Collar. Oxford University Press.