TS. Trần Phương Thảo
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích quỹ đạo cải cách quản trị lao động di trú của Philippines từ năm 2010 đến nay1, qua đó chỉ ra sự chuyển đổi từ quản lý thủ tục phân tán sang mô hình bảo hộ theo vòng đời dựa trên thể chế thống nhất, dữ liệu và quản lý rủi ro. Kết quả cho thấy, mô hình mới dịch chuyển rủi ro tài chính khỏi hộ gia đình, tăng trách nhiệm giải trình và cho phép can thiệp có điều kiện theo từng thị trường hoặc ngành. Hiệu lực được minh chứng qua đàm phán với Ả Rập xê út, điều chỉnh với Kuwait, duy trì công nhận chứng chỉ thuyền viên của Liên minh châu Âu và năng lực hồi hương quy mô lớn trong đại dịch Covid-19. Từ đó, bài viết gợi mở cho Việt Nam một số hướng ưu tiên, như: thiết lập đầu mối thể chế thống nhất; chuẩn hóa hợp đồng và bảo hiểm theo ngành rủi ro; số hóa quy trình đầu – cuối; điều tiết dựa trên dữ liệu.
Từ khóa: Quản trị lao động di trú, bảo hộ theo vòng đời, thẻ số cho người lao động ở nước ngoài, Philippines.
1. Đặt vấn đề
Philippines là một trong những quốc gia tham gia sớm và sâu vào thị trường xuất khẩu lao động, kiều hối vì thế giữ vai trò quan trọng đối với ổn định kinh tế vĩ mô và sinh kế hộ gia đình. Trong hơn một thập kỷ qua, các cải cách của Philippines không hình thành một cách áp đặt từ trên xuống mà bắt nguồn trực tiếp từ áp lực thực tế: quản lý lao động ở nước ngoài phức tạp, yêu cầu bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động gia tăng, nhu cầu hỗ trợ tái hòa nhập sau khi kết thúc hợp đồng ngày càng rõ, cùng với sức ép xã hội – quyền lợi người lao động và những tác động lan tỏa tới cấu trúc kinh tế – xã hội trong nước. Đặc điểm chuỗi tuyển dụng – phái cử có sự tham gia mạnh của khu vực tư nhân cũng làm nảy sinh rủi ro lạm thu, bất cân xứng thông tin và chi phí giao dịch cao.
Trước các điểm nghẽn đó, Philippines triển khai một tổ hợp điều chỉnh chính sách, như: sàng lọc thị trường tiếp nhận; áp trần và minh bạch chi phí tuyển dụng; bắt buộc bảo hiểm; hợp nhất đầu mối quản lý; chuẩn hóa hợp đồng; vận hành cơ chế can thiệp có điều kiện theo mức rủi ro và số hóa toàn bộ quy trình để tăng minh bạch, truy vết và trách nhiệm giải trình. Cách tiếp cận này vừa xử lý khó khăn trong quản lý lao động ở nước ngoài và bảo hộ quyền lợi, vừa giảm sức ép xã hội trong nước và hướng đến một chiến lược lao động di trú bền vững hơn.
Việt Nam cũng là một nước cung ứng lao động quan trọng cho nhiều thị trường. Vì vậy yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đi đôi với bảo vệ lợi ích người lao động ở nước ngoài ngày càng được đề cao. Kinh nghiệm và thực tiễn cải cách của Philippines sẽ phần nào cung cấp các gợi mở hữu ích để Việt Nam hoàn thiện cơ chế quản lý theo hướng hiệu quả, minh bạch và phòng ngừa sớm những khó khăn tương tự mà Philippines từng gặp phải.
2. Một số cải cách của Philippines
Một là, tái cấu trúc thể chế và điều phối liên cơ quan.
Từ năm 2010, Philippines triển khai một chuỗi cải cách nối tiếp, như: Đạo Luật số 10022 (năm 2010), Đạo Luật số 10361 (năm 2013), Đạo Luật số 10801 (năm 2016), Đạo Luật số 11641 (năm 2021/2022), Bộ Quy tắc năm 2023 của Bộ Người lao động di trú (Department of Migrant Workers – DMW) và lộ trình số hóa thẻ số cho người lao động ở nước ngoài (Overseas Filipino Worker Pass, OFW Pass). Dưới góc nhìn cải cách thể chế, quỹ đạo này thể hiện chuyển dịch có chủ đích từ mô hình quản lý phân tán (Cơ quan quản lý lao động Philippines ở nước ngoài – Philippine Overseas Employment Administration, POEA; cơ quan phúc lợi cho người lao động Philippines ở nước ngoài – Overseas Workers Welfare Administration, OWWA và các đầu mối khác) sang cấu trúc tập trung hơn, đặt Bộ Người Lao động Di trú (DMW) ở vị trí hạt nhân điều phối và quy trách nhiệm.
Trên nền tảng đó, các chuẩn mực bảo hộ vốn có từ Đạo Luật số 8042/1995 được gia cố bằng những công cụ thực thi cụ thể, như: lọc thị trường tiếp nhận, bảo hiểm bắt buộc, giám sát và chế tài theo rủi ro, liên thông và chia sẻ dữ liệu; từ đây, quản trị xuất khẩu lao động được chuẩn hóa theo logic bảo hộ “theo vòng đời di cư”.
Thành tố nền tảng cho các cải cách này là Đạo Luật số 10022 (năm 2010), chuyển từ nguyên tắc sang ràng buộc thực thi. Đạo luật này quy định Bộ Ngoại giao (Department of Foreign Affairs, DFA) phải xác nhận ngay tại thời điểm xuất cảnh rằng quốc gia tiếp nhận bảo đảm khung pháp lý bảo vệ người lao động. Cơ chế “bật/tắt” theo từng quốc gia có thể gây va chạm ngắn hạn (như vụ căng thẳng liên quan lao động giúp việc tại Ả Rập xê út năm 2011)2, nhưng về dài hạn lại tạo đòn bẩy để đàm phán nâng chuẩn bảo hộ. Luật đồng thời thiết lập bảo hiểm bắt buộc theo nguyên tắc người lao động không chịu phí (đối với kênh doanh nghiệp), với gói quyền lợi và quy trình bồi thường được chuẩn hóa trong Quy định chung thi hành năm 2010 (Implementing Rules and Regulations, IRR – Quy tắc XVI) và hướng dẫn kỹ thuật của cơ quan giám sát bảo hiểm. Nhờ vậy, gánh nặng rủi ro tài chính dịch chuyển từ hộ gia đình sang doanh nghiệp phái cử, nhà bảo hiểm và nhà nước. Về thực thi, luật mở rộng định nghĩa và tăng chế tài đối với tuyển dụng trái phép, cấm “tái chế hồ sơ”, và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với lãnh đạo pháp nhân.
Đạo luật số 10801 (năm 2016) đánh dấu nâng cấp thể chế đối với Cơ quan phúc lợi cho người lao động Philippines ở nước ngoài (OWWA): từ chương trình trực thuộc thành cơ quan có luật riêng, hội đồng quản trị và quỹ OWWA với nhiệm vụ cung ứng phúc lợi theo vòng đời (trước khi đi, trong thời gian làm việc, sau khi về nước), bao gồm: trợ giúp pháp lý, y tế, học bổng, đào tạo, hỗ trợ sinh kế và tái hòa nhập. Trong đại dịch Covid-19, năng lực này được kiểm chứng khi OWWA và chính phủ hồi hương thành công khoảng 1,7 triệu công dân và chi khoảng 23,05 tỷ peso cho lưu trú, cách ly, vận chuyển3; đồng thời, chuẩn hóa quy trình dịch vụ qua “Hiến chương công dân” (Citizen’s Charter). Ở cấp độ hệ thống, đạo luật này đặt nền tảng cho mô hình “một cửa” (theo Đạo luật số 11641/2021) và tạo cơ sở pháp lý cho các biện pháp điều chỉnh quy phạm và đối ngoại. Minh chứng cụ thể, tháng 11/2022 Philippines khôi phục đưa lao động sang Ả Rập xê út theo hợp đồng với mức bảo hộ cao hơn4; đến tháng 3/2023 Liên minh châu Âu tiếp tục công nhận chứng chỉ thuyền viên của Philippines5.
Đạo luật số 11641 (năm 2021) cùng Quy định chi tiết thi hành năm 2022 (Implementing Rules and Regulations, IRR) đã gom các chức năng ban hành chuẩn mực, cấp phép, thanh tra và cung ứng dịch vụ về một đầu mối là Bộ Người Lao động Di trú (DMW). Đồng thời, đạo luật cũng thiết kế mạng lưới Văn phòng Người lao động di trú ở nước ngoài (Migrant Workers Office, MWO) để thực hiện bảo hộ ngay tại nước sở tại theo mô hình phối hợp liên cơ quan thống nhất tại nước sở tại, phối hợp giữa Bộ Người Lao động Di trú (DMW) – Bộ Ngoại giao (Department of Foreign Affairs, DFA) – Bộ Lao động và Việc làm (Department of Labor and Employment, DOLE) – Cơ quan Phúc lợi cho người lao động Philippines ở nước ngoài (Overseas Workers Welfare Administration, OWWA).). Hiện DMW vận hành 42 Văn phòng Người lao động di trú ở nước ngoài (MWO) tại 31 quốc gia6.
Một đổi mới trọng yếu nữa là Quỹ Hỗ trợ khẩn cấp cho người lao động Philippines ở nước ngoài (Agarang Kalinga at Saklolo para sa mga OFW na Nangangailangan, AKSYON Fund) do DMW quản lý, tách khỏi Quỹ Hỗ trợ công dân ở nước ngoài/Quỹ Hỗ trợ pháp lý (Assistance-to-Nationals Fund/Legal Assistance Fund, ATN/LAF) của DFA, cho phép chủ động chi hỗ trợ pháp lý, y tế, tài chính và hồi hương, rút ngắn phê duyệt. Trên nền tảng này, Thông tư số 01/2023 ban hành Bộ Quy tắc năm 2023 của DMW thay thế phần lớn quy tắc của Cơ quan Quản lý lLao động Philippines ở nước ngoài (Philippine Overseas Employment Administration, POEA), cập nhật điều kiện cấp phép và giám sát doanh nghiệp phái cử, chuẩn hóa hợp đồng và nghĩa vụ hỗ trợ tại nước đến, thống nhất quy trình nghiệp vụ dưới một cơ quan chủ quản. Ở cấp độ triển khai, Trung tâm Điều phối hồi hương một cửa (One Repatriation Command Center, ORCC) hoạt động 24/7, kết nối các cơ quan trong nước với mạng lưới Văn phòng Người lao động di trú ở nước ngoài (MWO), qua đó phối hợp gần như theo thời gian thực trong các đợt sơ tán tại Trung Đông7.
Nhìn chung, gói cải cách này giúp giảm tình trạng chồng chéo thẩm quyền và va chạm giữa các ngành, tạo ra một đầu mối chịu trách nhiệm duy nhất khi xảy ra khủng hoảng, và chuyển cách thức bảo hộ từ “hậu kiểm – ứng biến” sang “một cửa – chủ động”. Đồng thời, các cải cách cũng đã củng cố hình ảnh nhà nước bảo trợ và tăng đòn bẩy đàm phán khi phát hiện vi phạm có hệ thống ở các thị trường tiếp nhận.
Thứ hai, cải cách bảo hộ theo vòng đời di cư.
Philippines đã thực hiện nhiều cải cách theo hướng tiếp cận theo vòng đời, kiến tạo chuỗi can thiệp liên tục “trước – trong – sau” khi người lao động ra nước ngoài.
Trước khi tham gia hợp đồng lao động ở nước ngoài: Đạo luật số 10022 yêu cầu Bộ Ngoại giao chứng nhận quốc gia tiếp nhận đáp ứng các bảo đảm pháp lý về bảo vệ người lao động ngay tại thời điểm xuất cảnh; đồng thời, theo Quy định chi tiết thi hành năm 2010 (Implementing Rules and Regulations, IRR – Quy tắc XVI), thiết lập cơ chế bảo hiểm bắt buộc theo nguyên tắc không thu phí người lao động, với gói quyền lợi tối thiểu và quy trình bồi thường được chuẩn hóa. Ủy ban Bảo hiểm (Insurance Commission) ban hành hướng dẫn kỹ thuật để triển khai thống nhất. Bên cạnh đó, Đạo luật số 11227 (năm 2019) quy định phát hành miễn phí Sổ tay người lao động ở nước ngoài cho cả lao động biển và lao động trên đất liền, nhằm tăng năng lực tự bảo vệ ngay từ giai đoạn tiền xuất cảnh. Các công cụ trên được vận hành cùng với việc tăng chế tài đối với tuyển dụng trái phép, qua đó ngăn chặn tình trạng tái chế hồ sơ và lạm thu phí.
Trong thời gian người lao động làm việc tại nước ngoài: Đạo luật số 10361 (2013, Batas Kasambahay) thiết lập “chuẩn sàn” trong nước đối với lao động giúp việc gia đình – nhóm lao động có tỷ lệ nữ cao. Đạo luật số 11299 (2019) quy định bố trí Tùy viên phúc lợi xã hội tại các cơ quan đại diện để tiếp nhận và xử lý các trường hợp dễ bị tổn thương. Từ năm 2021, Đạo luật số 11641 hợp nhất đầu mối quản lý về Bộ Người lao động di trú (Department of Migrant Workers, DMW), đưa mạng lưới Văn phòng Người lao động di trú ở nước ngoài (Migrant Workers Office, MWO) vào cùng một hệ thống, đồng thời, vận hành Quỹ Hỗ trợ khẩn cấp cho người lao động Philippines ở nước ngoài (Agarang Kalinga at Saklolo para sa mga OFW na Nangangailangan, AKSYON Fund) để hỗ trợ pháp lý, y tế, tài chính và hồi hương ngay tại nơi xảy ra vụ việc. Quy định chi tiết thi hành năm 2022 (Implementing Rules and Regulations, IRR) làm rõ việc chuyển giao chức năng và quy trình phối hợp theo mô hình phối hợp liên cơ quan thống nhất tại nước sở tại.
Sau khi người lao động kết thúc hợp đồng ở nước ngoài và trở về, các biện pháp an sinh đã được thể chế hóa nhằm hỗ trợ tái hòa nhập đời sống và sinh kế. Trong giai đoạn Covid-19, Cơ quan Phúc lợi cho người lao động Philippines ở nước ngoài (Overseas Workers Welfare Administration, OWWA) phối hợp với Chính phủ chi khoảng 23,05 tỉ peso để bố trí lưu trú, cách ly, vận chuyển và hồi hương cho khoảng 1,7 triệu công dân Philippines ở nước ngoài, một quy mô bảo hộ sau triển khai chưa từng có. Định hướng này tiếp tục được lồng ghép vào Kế hoạch Phát triển Philippines 2023 – 2028, nhấn mạnh mở rộng bảo trợ xã hội và hiện đại hóa dịch vụ công (vay vốn và hỗ trợ cơ sở vật chất để tái khởi nghiệp) dành cho cộng đồng kiều dân và người lao động hồi hương8.
Cơ chế bảo hộ theo vòng đời cũng tăng cường năng lực can thiệp dựa trên rủi ro. Cụ thể, Philippines đã vận hành chu trình tạm dừng – đàm phán – khôi phục có điều kiện đối với thị trường Ả Rập xê út (2021 – 2022); Liên minh châu Âu năm 2023 tiếp tục công nhận chứng chỉ thuyền viên Philippines sau khi nước này khắc phục các khuyến nghị kỹ thuật. Tại Trung Đông, Kuwait tạm ngừng cấp thị thực mới cho công dân Philippines (5/2023) rồi dỡ bỏ (6/2024) sau thương lượng9, cho thấy hiệu lực của “van” điều tiết thị trường kết hợp với dịch vụ bảo hộ tại chỗ nhằm nâng chuẩn bảo vệ người lao động; theo số liệu cuối năm 2022, riêng tại Kuwait có khoảng 753 nghìn lao động giúp việc gia đình. Năng lực ứng phó khẩn cấp của khối Bộ Người Lao động Di trú (DMW) – Bộ Ngoại giao (DFA) – Cơ quan Phúc lợi cho Người lao động Philippines ở nước ngoài (OWWA) cũng được kiểm chứng qua các chiến dịch sơ tán, hồi hương gần thời gian thực tại Sudan (4 -5/2023) và Israel/Levant (từ 10/2023)10.
Thứ ba, chuyển đổi số và điều tiết theo rủi ro.
Sau năm 2010, quản trị xuất khẩu lao động của Philippines chuyển sang mô hình dựa trên dữ liệu và rủi ro với 5 trụ cột.
(1) Số hóa quy trình: thẻ số cho người lao động ở nước ngoài (Overseas Filipino Worker Pass, OFW Pass; thử nghiệm từ giữa năm 2023) từng bước thay thế giấy chứng nhận việc làm ở nước ngoài (Overseas Employment Certificate, OEC) bằng hình thức xác thực số tích hợp định danh, hợp đồng và bảo hiểm trên ứng dụng của Bộ Người Lao động Di trú (Department of Migrant Workers, DMW). Công cụ này được kết nối với Trung tâm Điều phối Hồi hương Một cửa (One Repatriation Command Center, ORCC; từ 7/2022) để tiếp nhận và điều phối hoạt động hồi hương gần theo thời gian thực.
(2) Liên thông dữ liệu: dựa trên Đạo luật số 10022, một hệ sinh thái thông tin dùng chung được thiết lập để kết nối Bộ Ngoại giao (DFA), Bộ Lao động và Việc làm (DOLE), Bộ Người Lao động Di trú (DMW), Cục Xuất nhập cảnh và các cơ quan liên quan. Các mô-đun điện tử về thẻ số, cấp phép, tiếp nhận khiếu nại và điều phối hồi hương được tích hợp, qua đó liên kết dữ liệu về doanh nghiệp phái cử, hợp đồng, người lao động, bảo hiểm, khiếu nại và thanh tra thành một “đồ thị dữ liệu” thống nhất. Cấu trúc này phục vụ quản trị theo từng vụ việc (case management), cho phép truy vết – giám sát theo rủi ro và phát hiện sớm các tín hiệu bất thường để kịp thời can thiệp.
(3) Tuyển dụng có đạo đức: Bộ Quy tắc năm 2016 của Cơ quan quản lý lao động Philippines ở nước ngoài (POEA) quy định trần phí môi giới tối đa bằng một tháng lương và miễn hoàn toàn phí đối với lao động giúp việc gia đình; đồng thời, không thu phí tại các thị trường bị cấm thu. Bộ Quy tắc năm 2023 của Bộ Người lao động di trú (DMW) tiếp tục cập nhật toàn diện các điều kiện cấp phép, cơ chế giám sát, hợp đồng mẫu và thẩm quyền đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép khi phát hiện vi phạm có tính hệ thống; các quy định này nhất quán với cơ chế bảo hiểm bắt buộc “không thu phí người lao động” theo Quy tắc XVI của quy định chi tiết thi hành Đạo luật số 8042 đã được sửa đổi bởi Đạo luật số 10022.
(4) Quản lý dựa trên rủi ro: cơ chế tạm ngừng có mục tiêu trong Bộ Quy tắc năm 2023 được vận hành song song với cơ chế sàng lọc quốc gia tiếp nhận theo Đạo luật số 10022. Theo đó, cơ quan quản lý có thể kích hoạt một chu trình gồm 3 bước: tạm ngừng triển khai ở thị trường có rủi ro cao; đưa ra các điều kiện khắc phục cụ thể (hợp đồng, chi phí, giám sát, đầu mối phối hợp); và khôi phục có điều kiện sau khi đối tác đáp ứng các yêu cầu đã thống nhất.
Trường hợp Kuwait minh họa rõ quy trình này. Tháng 5/2023, phía Kuwait tạm ngừng cấp thị thực mới cho công dân Philippines trong bối cảnh nảy sinh các vấn đề liên quan bảo hộ và trật tự thị trường lao động. Trong giai đoạn tạm dừng, hai bên đàm phán một gói điều kiện khắc phục, trọng tâm vào chuẩn hóa điều khoản hợp đồng và cơ chế giải quyết tranh chấp; xiết kỷ luật chi phí tuyển dụng (không đẩy phí sang người lao động); tăng cường kênh tiếp nhận khiếu nại và hỗ trợ tại chỗ (qua mạng văn phòng ở nước ngoài và phối hợp liên cơ quan); cùng cơ chế kiểm tra, báo cáo định kỳ. Đến tháng 6/2024, lệnh tạm ngừng được dỡ bỏ khi các điều kiện cốt lõi được đáp ứng, và việc triển khai được khôi phục theo chế độ giám sát tăng cường. Trình tự tạm dừng – đặt điều kiện – khôi phục này cho thấy, cách tiếp cận dựa trên rủi ro vận hành trong thực tế: dùng “van” thị trường để tạo đòn bẩy thương lượng gắn khôi phục với tiêu chuẩn bảo hộ cụ thể và duy trì theo dõi sau khôi phục nhằm hạn chế tái diễn rủi ro.
(5) Gắn kết với chuẩn mực quốc tế: Philippines đã phê chuẩn các công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization, ILO), gồm Công ước số 189 về lao động giúp việc gia đình (2012) và Công ước Lao động hàng hải 2006 (2012), đồng thời, là thành viên Công ước quốc tế năm 1990 về quyền của người lao động di trú và thành viên gia đình. Trên cơ sở đó, việc nội luật hóa các chuẩn về phí tuyển dụng, điều kiện làm việc, an sinh và cơ chế khiếu nại đã tăng tính chính danh cho biện pháp “bật/tắt” thị trường; đồng thời, định hướng nội dung hợp đồng mẫu trong Bộ Quy tắc năm 2023 của Bộ Người lao động di trú (DMW).
3. Một số hàm ý chính sách đối với Việt Nam
Kinh nghiệm Philippines cho thấy, cách tiếp cận bảo hộ theo vòng đời có thể chuyển quản trị xuất khẩu lao động từ mô hình thủ tục, phân tán sang mô hình một cửa dựa trên dữ liệu và rủi ro. Với Việt Nam, mục tiêu kép là nâng chất lượng nguồn nhân lực đưa đi lao động và bảo vệ đầy đủ quyền, lợi ích của người lao động từ khâu tiền xuất cảnh đến hồi hương, tái hòa nhập.
Thứ nhất, về chính sách. Cần kiện toàn đầu mối một cửa gắn mạng dịch vụ ở nước sở tại để rút ngắn quy trình, quy rõ trách nhiệm và tăng khả năng ứng phó khẩn cấp. Song song, chuẩn hóa quyền tối thiểu và hợp đồng theo ngành/giới rủi ro, áp dụng nguyên tắc không thu phí đối với nhóm dễ tổn thương, đặt trần chi phí tuyển dụng và thể chế hóa bảo hiểm bắt buộc với quyền lợi, quy trình bồi thường chuẩn hóa.
Thứ hai, về công cụ. Thúc đẩy chuyển đổi số đầu – cuối, xây dựng thẻ số tích hợp định danh, hợp đồng, bảo hiểm và lịch sử khiếu nại; liên thông dữ liệu giữa cấp phép, ngoại giao, xuất nhập cảnh và bảo hiểm; công khai bảng điều khiển về chi phí, thời gian xử lý, tỷ lệ vi phạm để giám sát theo rủi ro và can thiệp sớm. Đồng thời, vận hành cơ chế tạm ngừng có mục tiêu theo nghề hoặc thị trường, gắn khôi phục với bộ điều kiện cụ thể và theo dõi sau khôi phục.
Thứ ba, về điều kiện bảo đảm. Hoàn thiện khung pháp lý dưới Luật 69/2020/QH14 theo hướng một cửa, hợp đồng chuẩn theo ngành và giới, chuẩn dữ liệu và bảo mật; bố trí nguồn lực cho quỹ hỗ trợ khẩn cấp và nhân sự chuyên trách; gắn cải cách trong nước với chuẩn mực của Tổ chức Lao động Quốc tế và thỏa thuận song phương; tăng truyền thông và tham vấn để giảm bất cân xứng thông tin. Cách tiếp cận này giúp giảm chi phí giao dịch và lạm dụng, nâng chuẩn bảo hộ, đồng thời, củng cố năng lực cạnh tranh của lao động Việt Nam trên các thị trường then chốt.
4. Kết luận
Nghiên cứu cho thấy, cải cách quản trị lao động di trú của Philippines từ năm 2010 đã chuyển đổi căn bản mô hình quản lý, từ thủ tục phân tán sang bảo hộ theo vòng đời dựa trên một đầu mối thể chế, dữ liệu và quản lý rủi ro. Tổ hợp công cụ gồm sàng lọc thị trường, hợp đồng mẫu, bảo hiểm bắt buộc, cơ chế tạm ngừng có mục tiêu, mạng văn phòng ở nước sở tại và chuyển đổi số đã giúp dịch chuyển rủi ro tài chính khỏi hộ gia đình, tăng trách nhiệm giải trình và nâng năng lực ứng phó khủng hoảng. Kết quả thực chứng tại các thị trường then chốt và trong đại dịch Covid-19 củng cố giá trị của cách tiếp cận này.
Đối với Việt Nam, bài học trung tâm là xây dựng mô hình một cửa gắn với chuẩn hóa hợp đồng và bảo hiểm theo ngành rủi ro, số hóa đầu và cuối và điều tiết dựa trên dữ liệu. Tuy vậy, việc vận dụng cần xét đến khác biệt thể chế, thị trường, yêu cầu nguồn lực bền vững và cơ chế đánh giá tác động định kỳ. Nghiên cứu tiếp theo nên đo lường hiệu quả chi phí và lợi ích của từng công cụ và điều kiện để mở rộng trên các ngành, thị trường khác nhau.
Chú thích:
1. Bài viết là sản phẩm đề tài khoa học “Xuất khẩu lao động của Philippines hiện nay và một số hàm ý cho Việt Nam”.
2. Năm 2011 do Philippines áp chuẩn lương tối thiểu 400 USD/tháng và yêu cầu tăng bảo hộ, Ả Rập Xê Út tạm ngừng cấp thị thực cho lao động giúp việc Philippines (30/6/2011); đến 9 – 10/2012, hai bên đạt thỏa thuận khôi phục tuyển dụng với mức tối thiểu 400 USD và các điều khoản bảo hộ bổ sung.
3. GMA News Online (18/03/2022). Chính phủ chi 23,05 tỷ PHP để hồi hương 1,7 triệu lao động Philippines ở nước ngoài trong đại dịch Covid-19 – theo OWWA (Ignacio). https://www.gmanetwork.com/news/pinoyabroad/dispatch/825480/gov-t-spent-p23-05b-for-repatriation-of-1-7m-ofws-during-covid-19-pandemic-owwa-s-ignacio/story/.
4. Khôi phục triển khai lao động Philippines sang Ả Rập xê ut từ ngày 07/11 theo hợp đồng tăng cường bảo hộ. https://dmw.gov.ph/news-releases/Ople-OFW-deployment-to-the-Kingdom-of-Saudi-Arabia-resumes-on-November-7-under-new-contracts-that-strengthen-workers-protection.
5. Vận tải biển: Ủy ban tiếp tục công nhận chứng chỉ thuyền viên Philippines. https://transport.ec.europa.eu/news-events/news/maritime-transport-commission-continues-recognise-filipino-seafarers-certificates-2023-03-31_en.
6. Chức năng; toàn văn Đạo luật số 11641 và Quy định chi tiết thi hành. https://dmw.gov.ph/resources/dsms/DMW/RA-11641.pdf.
7. Tháng 4 – 5/2023, Philippines tổ chức sơ tán công dân khỏi Sudan qua lộ trình Port Sudan – Jeddah do xung đột vũ trang bùng phát; từ tháng 10/2023, nước này tiếp tục triển khai các chuyến hồi hương khẩn cấp tại Israel và khu vực Levant, huy động phối hợp giữa đầu mối trong nước và mạng văn phòng ở nước ngoài để đưa người lao động về an toàn.
8. Kế hoạch Phát triển Philippines 2023-2028. https://pdp.depdev.gov.ph/wp-content/uploads/2023/01/PDP-2023-2028.pdf.
9. Tuyên bố chính thức về việc đình chỉ cấp thị thực cho công dân Philippines vào Kuwait. https://dfa.gov.ph/dfa-news/statements-and-advisoriesupdate/32448-official-statement-of-the-dfa-on-the-suspension-of-visas-for-ph-nationals-into-kuwait.
10. Chào đón nhóm công dân Philippines sơ tán đầu tiên từ Sudan. https://dfa.gov.ph/authentication-functions/78-newsroom/dfa-releases/32363-ph-gov-t-steps-up-efforts-to-evacuate-ofs-from-sudan-conflict.



