Bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam

TS. Hoàng Thị Giang
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Phụ nữ dân tộc thiểu số là bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong gia đình, phụ nữ dân tộc thiểu số là những người đảm nhiệm vai trò “giữ lửa”, duy trì nếp sống, ngôn ngữ, lễ hội và phong tục tập quán của cộng đồngcó sảnh hưởng sâu rộng đến việc giáo dục thế hệ trẻ cũng như nâng cao nhận thức xã hội tại địa phương. Bài viết nêu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.

Từ khóa: Phụ nữ dân tộc thiểu số, bảo đảm quyền tiếp cận, chính sách y tế, dịch vụ y tế, bình đẳng giới.

1. Đặt vấn đề

Quyền được tiếp cận dịch vụ y tế là một trong những quyền con người cơ bản, được khẳng định trong nhiều văn kiện quốc tế cũng như trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, với phụ nữ dân tộc thiểu số – nhóm đối tượng chịu nhiều thiệt thòi do điều kiện địa lý, kinh tế và văn hóa – việc tiếp dịch vụ y tế vẫn còn gặp không ít rào cản. Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong giảm tỷ lệ tử vong mẹ, mở rộng bảo hiểm y tế toàn dân và triển khai các chính sách y tế vùng khó khăn, song bất bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe giữa các nhóm dân tộc vẫn tồn tại dai dẳng. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phân tích sâu nguyên nhân, đánh giá hiệu quả chính sách hiện hành và đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế công bằng, phù hợp về văn hóa và bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số. Bên cạnh việc góp phần làm rõ các khía cạnh pháp lý, xã hội và chính sách liên quan, đồng thời khuyến nghị định hướng cho quá trình hoạch định chính sách y tế, thực hiện cam kết về phát triển bền vững và quyền con người ở Việt Nam.

Bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong chính sách an sinh xã hội và bình đẳng giới, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023. Đối với phụ nữ dân tộc thiểu số – nhóm thường sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, có điều kiện kinh tế, hạ tầng và trình độ dân trí hạn chế – quyền tiếp cận dịch vụ y tế không chỉ là vấn đề phúc lợi mà còn là chỉ báo phản ánh mức độ phát triển công bằng, bao trùm của quốc gia. Việc bảo đảm quyền này thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc thu hẹp khoảng cách vùng miền, giới và dân tộc, hướng tới mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau” theo tinh thần của Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam và Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp quốc. Điều này không chỉ mang giá trị nhân đạo và nhân quyền, mà còn góp phần trực tiếp vào phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng dân số và năng lực nội sinh của cộng đồng dân tộc thiểu số.

Khi phụ nữ được chăm sóc sức khỏe tốt hơn, họ có khả năng lao động, học tập, nuôi dạy con cái và tham gia đời sống xã hội tích cực hơn; tạo ra hiệu ứng lan tỏa trong việc giảm tỷ lệ tử vong mẹ, cải thiện sức khỏe sinh sản, nâng cao nhận thức về phòng bệnh và dinh dưỡng. Việc thúc đẩy tiếp cận y tế công bằng còn là minh chứng cho việc thực hiện quyền bình đẳng giới thực chất, khẳng định vai trò của phụ nữ dân tộc thiểu số trong tiến trình phát triển quốc gia và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Do đó, bảo đảm quyền này không chỉ là mục tiêu xã hội mà còn là động lực phát triển bền vững, nhân văn và toàn diện của đất nước.

2. Thực tiễn bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam

2.1. Những kết quả đã đạt được

Thứ nhất, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số.Những năm qua, Việt Nam đã ban hành và từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và chính sách nhằm bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế đối với phụ nữ dân tộc thiểu số. Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền được chăm sóc sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của mọi công dân (Điều 38). Bên cạnh đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành đã được ban hành, như: Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2023), Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Bình đẳng giới năm 2006, Luật Người cao tuổi năm 2009, Luật Trẻ em năm 2016 và đang trình dự thảo Luật Dân số… đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc mở rộng dịch vụ chăm sóc sức khỏe đến cộng đồng phụ nữ dân tộc thiểu số.

Thứ hai, về việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số. Công tác triển khai chính sách được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, trong đó nổi bật là việc mở rộng hệ thống cơ sở y tế vùng sâu, vùng xa; triển khai chính sách hỗ trợ bảo hiểm y tế miễn phí cho người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, cận nghèo; tăng cường đội ngũ cán bộ y tế thôn bản và tổ chức các dịch vụ y tế lưu động. Các chiến dịch truyền thông về chăm sóc sức khỏe sinh sản, tiêm chủng mở rộng, phòng, chống bệnh truyền nhiễm cũng được triển khai phù hợp với từng nhóm dân tộc. Nhờ đó, tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận dịch vụ khám thai định kỳ, sinh con tại cơ sở y tế và tham gia bảo hiểm y tế đã được cải thiện rõ rệt trong hơn một thập kỷ qua.

Thứ ba, cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số. Trong đó có cơ chế hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số được triển khai thông qua việc hỗ trợ chi phí khám, chữa bệnh qua bảo hiểm y tế, ưu tiên ngân sách đầu tư cho y tế cơ sở và y tế vùng khó khăn, cùng cơ chế phối hợp liên ngành giữa Bộ Y tế, Bộ Dân tộc và Tôn giáo và chính quyền địa phương. Đồng thời, các cơ chế giám sát, đánh giá, phản hồi chính sách được tăng cường, đặc biệt thông qua việc báo cáo thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới, chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em và phòng, chống tử vong mẹ trong cộng đồng dân tộc thiểu số. Đây là cơ sở quan trọng giúp phát hiện kịp thời, hạn chế và kiến nghị điều chỉnh chính sách phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn của phụ nữ dân tộc thiểu số.

2.2. Những hạn chế

Một, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật. Hiện còn thiếu đặc thù giới – dân tộc trong thiết kế chính sách: nhiều văn bản bao quát “vùng dân tộc thiểu số” nhưng chưa cụ thể hóa cho nhu cầu phụ nữ dân tộc thiểu số (ngôn ngữ, phong tục sinh đẻ, rào cản văn hóa), dẫn đến khoảng cách bền vững về sử dụng dịch vụ y tế. UN Women ghi nhận khác biệt đáng kể về sức khỏe sinh sản và hành vi sử dụngdịch vụ y tế giữa các nhóm dân tộc, cho thấy nhu cầu chính sách “đặc thù theo dân tộc và giới”1. Bên cạnh đó, hệ thống các chính sách, văn bản về quyền của phụ nữ dân tộc thiểu số chưa lồng ghép đầy đủ chuẩn mực “phù hợp văn hóa” trong chăm sóc mẹ và trẻ sơ sinh; bằng chứng tổng quan cho thấy phụ nữ dân tộc thiểu số vẫn duy trì tỷ lệ sinh tại nhà cao hơn và rủi ro tử vong mẹ cao gấp 2 – 4 lần so với phụ nữ dân tộc Kinh ở một số vùng, phản ánh khoảng trống quy định – hướng dẫn thực hành lâm sàng theo văn hóa.

Hai, về tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật. Rào cản giao tiếp, ngôn ngữ và năng lực đáp ứng của tuyến cơ sở: nghiên cứu định tính tại miền núi cho thấy, phụ nữ dân tộc thiểu số “ngại hỏi vì không nói được”, thông tin y tế một chiều và thiếu điều chỉnh theo văn hóa – ngôn ngữ, làm giảm sử dụng dịch vụ y tế trước/sau sinh.

Theo số liệu điều tra, phụ nữ dân tộc thiểu số trong độ tuổi 21 – 49 thuộc 12 nhóm dân tộc có tỷ lệ sử dụng dịch vụ phụ khoa trung bình là 62,0% (95% CI: 58,7 – 65,2%). Tỷ lệ này dao động đáng kể giữa các nhóm dân tộc, từ 36,5% ở người Mnông đến 87,7% ở người Bru Vân Kiều. Sự khác biệt này cho thấy, tình trạng bất bình đẳng rõ rệt trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế giữa các địa bàn và các nhóm dân tộc thiểu số khác nhau2. Báo cáo của UNICEF (2021) về việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ phụ nữ mang thai được khám thai từ 4 lần trở lên đạt trung bình 88,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ này giảm mạnh ở nhóm phụ nữ có trình độ học vấn thấp và thuộc hộ nghèo, đặc biệt chỉ đạt 10,6% trong nhómphụ nữ dân tộc Mông. Kết quả này phản ánh mức độ bất bình đẳng sâu sắc trong khả năng tiếp cận dịch vụ y tế sản khoa giữa các nhóm dân cư3.

Báo cáo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê Việt Nam cho thấy, tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con tại cơ sở y tế thấp hơn đáng kể so với phụ nữ dân tộc Kinh. Trung bình chỉ khoảng 63,6% phụ nữ dân tộc thiểu số sinh tại cơ sở y tế, trong khi con số này ở nhóm phụ nữ dân tộc Kinh đạt tới 99,1%. Đáng chú ý, 25 nhóm dân tộc có tỷ lệ sinh tại cơ sở y tế dưới 50%, phản ánh tình trạng bất bình đẳng rõ rệt trong khả năng tiếp cận dịch vụ sản khoa và cho thấy, công tác truyền thông – vận động chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa đạt hiệu quả ở nhiều cộng đồng vùng sâu, vùng xa4.

Trên thực tế, phụ nữ dân tộc thiểu số hiện vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, như: khoảng cách địa lý, hạn chế ngôn ngữ, thiếu nhân lực y tế tại cơ sở, và định kiến văn hóa – xã hội. Báo cáo của Quỹ dân số Liên Hợp quốc (UNFPA) cho thấy, tỷ lệ tử vong mẹ và suy dinh dưỡng trẻ em tại các vùng dân tộc thiểu số vẫn ở mức cao hơn đáng kể so với trung bình cả nước. Tỷ lệ tử vong mẹ ở các vùng dân tộc thiểu số vẫn dao động trong khoảng 100 – 150 ca trên 100.000 ca sinh sống, tức gấp 2 – 3 lần so với mức trung bình quốc gia là khoảng 46 ca/100.000 ca sinh5. Ví dụ, nhóm người H’Mông có tỷ lệ tử vong mẹ cao gấp 7 lần so với người Kinh. Trẻ em dân tộc thiểu số vẫn chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ suy dinh dưỡng, với tỷ lệ thấp còi cao hơn rõ rệt và gần 1/3 trẻ dân tộc thiểu số bị thấp còi6. Ngoài ra, tỷ lệ tử vong ở nhóm trẻ dưới 01 tuổi tại các cộng đồng dân tộc thiểu số có thể lên tới 2,2%, cao gấp nhiều lần so với mức trung bình quốc gia7.

Nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số không tiếp cận được dịch vụ khám thai, sinh con an toàn hoặc chăm sóc sức khỏe sinh sản phù hợp do thiếu thông tin và dịch vụ phù hợp với văn hóa. Chênh lệch lớn giữa vùng dân tộc thiểu số và mức bình quân quốc gia chỉ ra sự bất bình đẳng rõ rệt trong quyền tiếp cận hệ thống y tế, từ giai đoạn mang thai đến chăm sóc sơ sinh và dinh dưỡng trẻ nhỏ. Hiện nay, tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con tại cơ sở y tế còn thấp không chỉ do khó khăn về địa lý và tài chính mà còn xuất phát từ rào cản văn hóa và ngôn ngữ. Trong nhiều cộng đồng dân tộc, như: H’Mông, Dao, Ê Đê, phụ nữ thường ít giao tiếp được bằng tiếng phổ thông, khiến họ e ngại khi đến bệnh viện hoặc trạm y tế. Cán bộ y tế tại các vùng này phần lớn là người Kinh, không hiểu phong tục sinh nở, kiêng cữ hoặc niềm tin tâm linh của người dân, dẫn đến thiếu sự tin tưởng và hợp tác trong quá trình thăm khám8.

Ngoài ra, việc sinh tại nhà được xem là “tự nhiên” và phù hợp với truyền thống, trong khi cơ sở y tế bị nhìn nhận là xa lạ, tốn kém và không thân thiện với phong tục bản địa. Một số phụ nữ còn lo ngại bị phán xét hoặc thiếu tôn trọng do cách ăn mặc, ngôn ngữ hay tập quán. Vì vậy, việc thiếu cán bộ y tế hiểu văn hóa và ngôn ngữ địa phương trở thành rào cản lớn, làm giảm hiệu quả truyền thông y tế và hạn chế mức độ sử dụng dịch vụ sản khoa hiện đại. Việc đề xuất các giải pháp can thiệp chuyên biệt, tập trung vào những yếu tố đặc thù như địa lý, văn hóa, ngôn ngữ và cơ sở hạ tầng y tế tại các vùng núi, miền núi là cần thiết.

Ba, bên cạnh đó, cơ chế bảo đảm tiếp cận về mặt xã hội và văn hóa cũng còn nhiều bất cập. Phụ nữ dân tộc thiểu số ở nhiều nơi vẫn gặp rào cản ngônngữ,phong tục tập quán và định kiến giới, khiến họ ngại đến cơ sở y tế hoặc không chủ động sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Mạng lưới nhân lực y tế ở vùng dân tộc còn thiếu và yếu; nhiều trạm y tế xã chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn, thiếu bác sĩ sản – nhi, thiếu phương tiện chẩn đoán và thuốc thiết yếu.

Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục sức khỏe chưa phù hợp với đặc thù ngôn ngữ và văn hóa địa phương, khiến hiệu quả tiếp cận dịch vụ y tế chưa cao. Những hạn chế này cho thấy, cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số tuy đã hình thành nhưng chưa vận hành hiệu quả, đòi hỏi cần có sự hoàn thiện đồng bộ cả về chính sách, nguồn lực và cách tiếp cận mang tính liên ngành, lấy phụ nữ dân tộc thiểu số làm trung tâm của quá trình phát triển. Họ cũng đang phải đối mặt với nhiều rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản, đặc biệt là dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, khám, chữa bệnh định kỳ và phòng ngừa bệnh tật. Những thách thức này bắt nguồn từ các yếu tố đa chiều như điều kiện kinh tế khó khăn, khoảng cách địa lý, rào cản ngôn ngữ, trình độ học vấn thấp, cũng như định kiến giới và văn hóa đặc thù. Việc bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số không chỉ góp phần thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe mà còn là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là sức khỏe và bình đẳng giới.

3. Một số giải pháp

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách y tế theo tiếp cận quyền con người.

Nhà nước cần rà soát, sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, như: Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023, Luật Bình đẳng giới năm 2006 theo hướng cụ thể hóa quyền được chăm sóc sức khỏe không phân biệt dân tộc, giới tính, ngôn ngữ hay nơi cư trú. Các chính sách y tế vùng dân tộc thiểu số phải được thiết kế dựa trên nguyên tắc “không để ai bị bỏ lại phía sau”, đồng thời, lồng ghép yếu tố phù hợp văn hóa trong các chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản, bà mẹ – trẻ em.

Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao tính thực thi của chính sách thông qua các hướng dẫn chi tiết, tài liệu y tế song ngữ và đội ngũ cán bộ y tế hiểu biết văn hóa địa phương. Cách tiếp cận kết hợp giữa pháp lý – nhân quyền – văn hóa là điều kiện then chốt để bảo đảm công bằng và hiệu quả trong tiếp cận dịch vụ y tế của phụ nữ dân tộc thiểu số.

Thứ hai, tăng cường năng lực hệ thống y tế cơ sở tại vùng dân tộc thiểu số.

Hệ thống y tế cơ sở là tuyến đầu bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ y tế cho phụ nữ phụ nữ dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều trạm y tế xã vùng cao vẫn thiếu bác sĩ, thiết bị và thuốc thiết yếu; theo Bộ Y tế, có khoảng 65% trạm y tế xã vùng dân tộc thiểu số chưa đạt chuẩn quốc gia về y tế9. Điều này dẫn đến hạn chế trong chăm sóc sức khỏe sinh sản và cấp cứu sản khoa. Để khắc phục hạn chế trên, cần tăng cường đầu tư hạ tầng, trang thiết bị và nhân lực y tế tuyến cơ sở, ưu tiên vùng sâu, vùng xa. Chính sách đãi ngộ, phụ cấp và luân chuyển cán bộ y tế phải đủ hấp dẫn để thu hút bác sĩ, hộ sinh làm việc lâu dài tại địa phương. Bên cạnh đó, cần đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng giao tiếp và tư vấn phù hợp văn hóa dân tộc; đồng thời, phát huy vai trò y tế thôn bản và cộng tác viên dân số trong công tác truyền thông, chăm sóc mẹ và trẻ em.

Ngoài ra, việc ứng dụng y tế lưu động và công nghệ số sẽ giúp mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, rút ngắn khoảng cách địa lý và cải thiện hiệu quả chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ dân tộc thiểu số. Qua đó, hệ thống y tế cơ sở thực sự trở thành nền tảng bảo đảm công bằng và tiếp cận y tế bền vững cho các nhóm dân tộc thiểu số.

Thứ ba, bảo đảm bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ dân tộc thiểu số.

Thực tế cho thấy, nhiều phụ nữ vùng dân tộc vẫn chịu thiệt thòi kép do định kiến giới, hạn chế về ngôn ngữ, học vấn và vai trò phụ thuộc trong gia đình, khiến họ khó tiếp cận các dịch vụ y tế, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con an toàn. Để tạo bình đẳng và họ có quyền, cần lồng ghép mục tiêu bình đẳng giới trong mọi chính sách, chương trình y tế vùng dân tộc thiểu số, bảo đảm phụ nữ dân tộc thiểu số được tham gia thực chất vào quá trình lập kế hoạch, giám sát và đánh giá chính sách y tế tại địa phương. Việc trao quyền cho phụ nữ thông qua đào tạo kiến thức về sức khỏe sinh sản, pháp luật, kỹ năng tài chính và kỹ năng ra quyết định sẽ giúp người phụ nữ chủ động hơn trong chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình.

Ngoài ra, các hoạt động truyền thông thay đổi hành vi cần được triển khai bằng tiếng dân tộc, kết hợp hình thức phù hợp văn hóa để xóa bỏ quan niệm trọng nam -khinh nữ, nâng cao nhận thức của nam giới và cộng đồng về vai trò của phụ nữ trong chăm sóc sức khỏe. Các mô hình câu lạc bộ phụ nữ, nhóm tự lực và mạng lưới phụ nữ dân tộc thiểu số nòng cốt nên được nhân rộng nhằm chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ tâm lý và vận động xã hội cho bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế.

Thứ tư, tăng cường hỗ trợ kinh tế – xã hội đi đôi với cải thiện chất lượng dịch vụ y tế.

Tiếp cận dịch vụ y tế của phụ nữ dân tộc thiểu số không chỉ phụ thuộc vào yếu tố y tế, mà còn chịu tác động mạnh từ điều kiện kinh tế – xã hội, như: thu nhập thấp, trình độ học vấn hạn chế và hạ tầng giao thông yếu kém. Nhiều nghiên cứu cho thấy, dù đã được cấp thẻ bảo hiểm y tế, phụ nữ dân tộc thiểu số vẫn không sử dụng dịch vụ do chi phí gián tiếp cao (đi lại, ăn ở, mất thu nhập) và chất lượng phục vụ chưa đáp ứng nhu cầu.

Để giải quyết vấn đề trên, việc hỗ trợ kinh tế – xã hội cần được thực hiện song song với nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Nhà nước nên mở rộng các chính sách hỗ trợ tài chính gián tiếp cho phụ nữ dân tộc thiểu số khi sử dụng dịch vụ tại tuyến trên, đồng thời lồng ghép chương trình giảm nghèo, hỗ trợ sinh kế và giáo dục sức khỏe vào chính sách y tế vùng dân tộc. Mặt khác, cải thiện chất lượng dịch vụ y tế cần tập trung vào nâng cao năng lực chuyên môn, thái độ phục vụ và điều kiện cơ sở vật chất của cán bộ y tế tuyến cơ sở, nhằm tăng mức độ hài lòng và niềm tin của người dân.

Thứ năm, phát triển mạng lưới bác sĩ y tế cộng đồng và hộ sinh địa phương.

Đây là giải pháp trọng tâm nhằm thu hẹp khoảng cách tiếp cận dịch vụ y tế của phụ nữ dân tộc thiểu số. Hiện nay, tỷ lệ sinh tại cơ sở y tế ở nhiều vùng dân tộc còn thấp do thiếu cán bộ y tế am hiểu văn hóa và ngôn ngữ bản địa10. Đây cũng là lý do cần phát triển đội ngũ bác sĩ và hộ sinh là người dân tộc thiểu số hoặc được đào tạo chuyên sâu về giao tiếp đa văn hóa, nhằm tạo môi trường thân thiện, tôn trọng bản sắc và nâng cao niềm tin của phụ nữ dân tộc khi tiếp cận dịch vụ y tế. Cần đào tạo, tuyển dụng và duy trì đội ngũ bác sĩ, y sĩ, nữ hộ sinh là người dân tộc thiểu số hoặc gắn bó lâu dài với địa phương, coi đây là “cầu nối văn hóa” giữa hệ thống y tế và cộng đồng. Nhà nước nên mở rộng chính sách cử tuyển y tế vùng cao, học bổng và phụ cấp đặc thù để thu hút, giữ chân nhân lực y tế ở vùng khó khăn.

Bên cạnh đó, cần bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn và giao tiếp đa văn hóa cho đội ngũ này, chú trọng các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản, tư vấn thai sản và cấp cứu sản khoa. Việc kết hợp mô hình bác sĩ gia đình vùng cao và y tế lưu động sẽ giúp phụ nữ dân tộc thiểu số được tiếp cận dịch vụ kịp thời, an toàn và phù hợp văn hóa, góp phần nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Chú thích:
1. UN Women (2021). Gender issues of ethnic minority groups in Viet Nam (Policy Brief).
2. Lê Thị Kim Thảo và nhóm tác giả (2023). Disparities in gynecological healthcare service utilization among 12 ethnic minority groups in Vietnam. Journal of Racial and Ethnic Health Disparities, 10(5), 2155–2166. https://doi.org/10.1007/s40615-022-01395-3
3. Antenatal Care – SDG Country Work 2020–2021: Viet Nam Country Report. Hanoi: UNICEF Viet Nam. https://data.unicef.org/resources/sdg-country-work-2020-2021-viet-nam
4. Figures on ethnic minority women and men in Viet Nam – Based on the results of the survey on the socio-economic situation of 53 ethnic minority groups in Viet Nam 2015. https://vietnam.un.org/sites/default/files/2019-08/Figures%20on%20Ethnic%20Minority%20Women%20and%20Men%20in%20Viet%20Nam-EN.pdf
5. The Danger of Home Births – Part 2: So That Mothers Can Give Birth in the Light. https://vietnam.unfpa.org/en/news/danger-home-births-part-2-so-mothers-can-give-birth-light?utm_source=chatgpt
6, 7. The Danger of Home Births – Final Part: More Policies Needed to Reduce Maternal Mortality. https://vietnam.unfpa.org/en/tags/maternal-mortality?utm_source=chatgpt
8, 10. United Nations Population Fund (UNFPA) (2020). The Danger of Home births – Maternal health care for ethnic minority women in Viet Nam. Hanoi: UNFPA Viet Nam.
9. Bộ Y tế (2022). Báo cáo tổng kết công tác y tế vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 – 2021. H. NXB Y học.
Tài liệu tham khảo:
1. Eneral Statistics Office (GSO) & United Nations Entity for Gender Equality and the Empowerment of Women (UN Women). (2015). Figures on ethnic minority women and men in Viet Nam – Based on the results of the survey on the socio-economic situation of 53 ethnic minority groups in Viet Nam 2015. Hanoi: Statistical Publishing House.
2. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
3. Quốc hội (2023). Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023.
4. World Health Organization. (2007). Human rights, health and poverty reduction strategies. WHO Press.
5. United Nations (1966). International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights (ICESCR).
6. United Nations Viet Nam. (2020). Leave No One Behind: A call to action for inclusive development in Viet Nam.