Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan hành chính nhà nước của thành phố Đà Nẵng

ThS. Nguyễn Hoài Thịnh
Ban Nội chính Thành ủy Đà Nẵng

(Quanlynhanuoc.vn) – Hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn là một trong những trụ cột của chính sách phòng, chống tham nhũng, góp phần bảo đảm tính minh bạch, liêm chính và trách nhiệm giải trình trong quản lý công vụ. Trong những năm gần đây, thành phố Đà Nẵng đã có nhiều nỗ lực trong việc tổ chức, triển khai và hoàn thiện cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập với nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những khó khăn, bất cập cả về thể chế, tổ chức, nguồn lực và nhận thức xã hội, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi.

Từ khóa: Tài sản; thu nhập; kiểm soát tài sản, thu nhập; người có chức vụ, quyền hạn; thành phố Đà Nẵng.

1. Mở đầu

Trong những năm qua, công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn được thành phố Đà Nẵng quan tâm triển khai đồng bộ, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đây là một nội dung trọng yếu trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm bảo đảm tính liêm chính, minh bạch và trách nhiệm giải trình của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn tồn tại những hạn chế mang tính hệ thống và cấu trúc. Những hạn chế này xuất phát từ khoảng trống thể chế, hạn chế nguồn lực và văn hóa liêm chính công vụ chưa đồng đều. Từ đó, cho thấy yêu cầu cần thiết phải chuyển mạnh sang mô hình quản trị công minh bạch – dữ liệu – có trách nhiệm giải trình cao, lấy con người, công nghệ và niềm tin xã hội làm trung tâm. Để công tác này phát huy hiệu quả thực chất, bền vững và có khả năng nhân rộng, cần hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực quản trị, mở rộng giám sát xã hội và hiện đại hóa hạ tầng dữ liệu phục vụ kiểm soát tài sản, thu nhập.

2. Thực trạng kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan hành chính nhà nước của thành phố Đà Nẵng

Về tổng thể, có thể đánh giá công tác kiểm soát tài sản, thu nhập tại thành phố Đà Nẵng đã đạt được bước tiến đáng kể, thể hiện năng lực điều hành hiệu quả, sự cam kết chính trị cao và nền hành chính minh bạch, hiện đại.

Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp lý và cơ chế chỉ đạo, điều hành được ban hành tương đối đồng bộ, kịp thời. Ngay sau khi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định số 130/2020/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực, UBND thành phố Đà Nẵng đã chủ động ban hành nhiều kế hoạch, hướng dẫn, quy chế và văn bản chỉ đạo chuyên đề về kiểm soát tài sản, thu nhập. Thành phố đã hình thành khung thể chế thống nhất từ cấp thành phố đến cơ sở, quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị và người đứng đầu trong việc tổ chức kê khai, công khai và xác minh tài sản, thu nhập.

Thứ hai, tổ chức bộ máy và phân công trách nhiệm được xác định rõ ràng, vận hành hiệu quả. Công tác kiểm soát tài sản, thu nhập được Thanh tra thành phố chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Công an, Sở Khoa học và Công nghệ (trước năm 2025 là Sở Thông tin và Truyền thông), Cơ quan Thuế và UBND các cấp (từ tháng 7/2025 là UBND phường, xã). Cơ chế phân cấp, phối hợp được thực hiện rõ ràng, tránh chồng chéo. Hệ thống phần mềm quản lý kê khai tài sản, thu nhập điện tử được triển khai đồng bộ giúp giảm tải thủ tục hành chính, nâng cao tính chính xác và khả năng tra cứu dữ liệu. Đội ngũ cán bộ thanh tra ngày càng được chuyên nghiệp hóa, từng bước đáp ứng yêu cầu của công tác kiểm soát quyền lực công.

Thứ ba, việc kê khai, công khai và xác minh tài sản, thu nhập được thực hiện nghiêm túc, có chuyển biến về chất. Đến năm 2025, trên 95% cán bộ, công chức, viên chức thuộc diện phải kê khai đã thực hiện đầy đủ, đúng hạn, trong đó, đa số chuyển sang hình thức kê khai điện tử. Công tác xác minh tài sản, thu nhập được tiến hành theo kế hoạch hằng năm và đột xuất, tập trung vào các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao, như: đất đai, tài chính, đầu tư công, thuế, hải quan, kho bạc, công tác cán bộ. Kết quả xác minh cho thấy, phần lớn bản kê khai đúng quy định và trung thực, chỉ có một số ít trường hợp bị xử lý kỷ luật hành chính do kê khai không trung thực hoặc chậm nộp bản kê khai.

Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo được đẩy mạnh và xử lý nghiêm minh. Giai đoạn từ năm 2020 –  2025, thành phố đã tiến hành trên 250 cuộc thanh tra, xác minh chuyên đề liên quan đến tài sản, thu nhập, xử lý kỷ luật 8 trường hợp vi phạm, trong đó có 3 trường hợp bị cảnh cáo, 5 trường hợp bị khiển trách. Việc xử lý được thực hiện công khai, minh bạch, góp phần nâng cao tính răn đe, phòng ngừa và củng cố kỷ luật hành chính.

Thứ năm, sự tham gia của xã hội và truyền thông đại chúng trong giám sát ngày càng tích cực. Các tổ chức chính trị – xã hội, Mặt trận Tổ quốc, báo chí, truyền thông và người dân đã tham gia giám sát, phản biện xã hội, phản ánh và góp ý đối với công tác kê khai, công khai tài sản, thu nhập, qua đó, tăng cường tính minh bạch, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức và thúc đẩy văn hóa liêm chính trong khu vực công.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn tại thành phố Đà Nẵng vẫn còn một số hạn chế, bất cập:

(1) Tỷ lệ xác minh và xử lý vi phạm còn thấp so với quy mô đối tượng kê khai. Mặc dù hằng năm có hàng chục nghìn bản kê khai được nộp, nhưng chỉ một tỷ lệ nhỏ (dưới 5%) được xác minh. Nhiều cuộc xác minh vẫn mang tính định kỳ, hình thức, chưa gắn chặt với các tiêu chí rủi ro, dấu hiệu bất thường về tài sản, thu nhập.

(2) Năng lực và chuyên môn của đội ngũ cán bộ kiểm soát tài sản, thu nhập chưa đồng đều. Đội ngũ thanh tra chuyên trách còn mỏng, thiếu cán bộ có kiến thức về tài chính, ngân hàng, kế toán, phân tích dữ liệu và điều tra tài sản, trong khi đó, khối lượng công việc ngày càng lớn và phức tạp. Nhiều địa phương vẫn bố trí cán bộ kiêm nhiệm, dẫn đến hiệu quả kiểm soát chưa cao.

(3) Cơchế phối hợp và chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan liên quan còn hạn chế. Mặc dù Đà Nẵng đã có hệ thống dữ liệu dùng chung, song kết nối thông tin giữa Thanh tra – Thuế – Tài chính – Ngân hàng – Tài nguyên và Môi trường vẫn chưa thực sự thông suốt, ảnh hưởng đến quá trình đối chiếu, xác minh nguồn gốc tài sản tăng thêm. Việc ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu còn sơ khai, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng của cơ sở dữ liệu lớn.

(4) Cơ sở pháp lý trong một số khâu còn chưa đầy đủ. Một số quy định về xử lý tài sản, thu nhập không rõ nguồn gốc, hoặc về bảo vệ người tố cáo, cung cấp thông tin còn thiếu hướng dẫn chi tiết, dẫn đến tâm lý e ngại, né tránh trong phát hiện và tố cáo vi phạm. Ngoài ra, mức độ công khai thông tin kê khai còn giới hạn, người dân khó tiếp cận hoặc giám sát thực chất.

(5) Nhận thức xã hội và văn hóa công vụ về minh bạch tài sản còn chưa đồng đều. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức vẫn coi kê khai tài sản là thủ tục hành chính mang tính hình thức, chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa minh bạch và liêm chính công vụ.

3. Giải pháp tăng cường kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan hành chính nhà nước của thành phố Đà Nẵng

Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao ý thức, đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức.

Cần nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong kiểm soát tài sản, thu nhập.Đây là giải pháp mang tính nền tảng, bảo đảm cho các giải pháp khác được triển khai đồng bộ và hiệu quả.

Gắn công tác giáo dục, tuyên truyền với việc xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử trong cơ quan hành chính nhà nước. Cần đưa nội dung liêm chính, minh bạch, trách nhiệm giải trình vào tiêu chí đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức hằng năm, coi đây là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để bổ nhiệm, quy hoạch, sử dụng cán bộ. Chú trọng xây dựng môi trường công sở văn minh, kỷ cương, tạo động lực để cán bộ, công chức, viên chức phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng nghề nghiệp. Công tác biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân gương mẫu, thực hiện tốt việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập cần được thực hiện kịp thời, song song với xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm.

Hai là, hoàn thiện thể chế và tổ chức bộ máy thực hiện.

Cần tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập theo hướng đồng bộ, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong đó, quy định rõ đối tượng phải kê khai, nội dung kê khai, trách nhiệm giải trình về biến động tài sản, thu nhập, cũng như cơ chế xử lý đối với hành vi kê khai không trung thực, chậm trễ hoặc không giải trình được hợp lý. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong kiểm soát tài sản, thu nhập, bao gồm: cơ quan thanh tra, kiểm toán, Ủy ban kiểm tra, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.

Kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm soát tài sản, thu nhập. Cần có cơ quan chuyên trách hoặc đơn vị đầu mối thống nhất ở Trung ương và địa phương để bảo đảm sự tập trung, chuyên môn hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động. Đội ngũ cán bộ làm công tác này phải được tuyển chọn chặt chẽ, đào tạo chuyên sâu, có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và kỹ năng nghiệp vụ vững vàng.

Ba là, đổi mới công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.

Xây dựng cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các lĩnh vực, vị trí công tác, chức vụ dễ phát sinh tham nhũng, lợi ích nhóm và các trường hợp có biến động lớn, bất thường về tài sản, thu nhập. Đổi mới phương pháp kiểm tra, thanh tra theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng cơ sở dữ liệu liên thông về tài sản, thu nhập, kết nối với dữ liệu ngành thuế, ngân hàng, đất đai, chứng khoán… để phát hiện kịp thời các dấu hiệu bất minh. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, Ủy ban kiểm tra Đảng, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động giám sát và xử lý vi phạm về kiểm soát tài sản, thu nhập. Cần xác định rõ vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm từng cơ quan để tránh trùng lặp, bỏ sót, đồng thời nâng cao hiệu quả xử lý, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Bốn là, xây dựng cơ sở dữ liệu kiểm soát tài sản, thu nhập quốc gia.

Cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập gắn với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành hiện có, như: Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, thuế, tài chính, ngân hàng, phương tiện giao thông, chứng khoán. Hoàn thiện khung pháp lý về quản lý, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu kiểm soát tài sản, thu nhập, trong đó quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp, cập nhật, chia sẻ thông tin; trách nhiệm bảo mật, an toàn dữ liệu và cơ chế xử lý vi phạm khi làm lộ, lọt thông tin.

Xây dựng ngân hàng dữ liệu liên kết các thông tin về bất động sản, thuế và thu nhập. Hình thành cơ chế liên thông dữ liệu giữa các cơ quan quản lý nhà nước, như cơ quan thuế, cơ quan đăng ký đất đai, cơ quan tài chính, ngân hàng và các đơn vị quản lý thu nhập khác. Việc liên thông bảo đảm mỗi giao dịch, biến động tài sản, đặc biệt là bất động sản và thu nhập từ các nguồn khác nhau, đều được ghi nhận và cập nhật đầy đủ, thống nhất.

Xây dựng ngân hàng dữ liệu tập trung có chức năng tích hợp, chuẩn hóa và lưu trữ thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Ngân hàng dữ liệu này phải bảo đảm tính chính xác, kịp thời và dễ dàng tra cứu, phục vụ cho việc đối chiếu, xác minh khi có yêu cầu kiểm soát tài sản, thu nhập. Áp dụng công nghệ hiện đại trong quản lý và khai thác dữ liệu, như hệ thống định danh số, trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích dữ liệu, cảnh báo các biến động bất thường về tài sản, thu nhập; công nghệ blockchain để bảo đảm tính minh bạch, chống gian lận và chỉnh sửa trái phép.

Năm là, đẩy mạnh việc thanh toán, chi tiêu không dùng tiền mặt.

Hoàn thiện hành lang pháp lý, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích việc sử dụng các phương thức thanh toán điện tử, đồng thời hạn chế dần các giao dịch bằng tiền mặt, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, mua bán tài sản có giá trị lớn, chi trả lương và các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước. Phát triển hạ tầng công nghệ số, mở rộng hệ thống ngân hàng số, ví điện tử, dịch vụ thanh toán trực tuyến, bảo đảm thuận lợi, an toàn, dễ tiếp cận cho cán bộ, công chức, viên chức và người dân.

Sáu là, xử lý nghiêm đối với cá nhân, cơ quan vi phạm quy định kiểm soát tài sản, thu nhập.

Rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về trách nhiệm và chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm trong kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập. Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong xử lý vi phạm, nhất là các trường hợp người có chức vụ, quyền hạn kê khai không trung thực hoặc che giấu tài sản bất minh, nhằm tạo sự đồng thuận, niềm tin trong xã hội. Kết hợp giữa các hình thức xử lý kỷ luật Đảng, kỷ luật hành chính và trách nhiệm hình sự (nếu có dấu hiệu tội phạm), bảo đảm mọi vi phạm đều bị phát hiện, xử lý nghiêm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

Bảy là, tăng cường giám sát xã hội đối với kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí, truyền thông và Nhân dân được tham gia giám sát việc kê khai, xác minh và xử lý vi phạm về tài sản, thu nhập. Khuyến khích và bảo vệ người dân, cơ quan báo chí trong việc phát hiện, phản ánh, tố cáo các hành vi vi phạm liên quan đến tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, đồng thời có cơ chế bảo đảm an toàn cho người tố cáo.

4. Kết luận

Công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan hành chính nhà nước của thành phố Đà Nẵng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện sự chuyển đổi rõ rệt từ mô hình kiểm tra hành chính sang mô hình quản trị công minh bạch, có sự tham gia của xã hội và hỗ trợ bởi công nghệ. Tuy nhiên, kết quả kiểm soát tài sản, thu nhập vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là tỷ lệ xác minh hồ sơ kê khai thấp, việc xử lý chưa đủ sức răn đe, đối tượng kê khai chưa được mở rộng bao quát, trong khi cơ sở dữ liệu và sự kết nối thông tin giữa các ngành còn thiếu đồng bộ. Những vấn đề này cho thấy sự cần thiết phải thực hiện tốt các giải pháp để khắc phục khoảng trống, tháo gỡ điểm nghẽn từ thực tiễn quản lý, nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, phòng ngừa tham nhũng và củng cố niềm tin của Nhân dân đối với chính quyền.

Tài liệu tham khảo:
1. Đinh Văn Minh (2024). Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về kiểm soát tài sản, thu nhập – Những khó khăn, vướng mắc và giải pháp khắc phục”. Kỷ yếu Hội thảo khoa học về kiểm soát tài sản, thu nhập ở Việt Nam hiện nay. Học viện Hành chính Quốc gia.
2. Nguyễn Quốc Sửu. Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn. H. NXB Chính trị quốc gia.
3. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2020). Báo cáo số 377/BC-UBND ngày 28/12/2020 về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng Quý IV và tổng kết năm 2020.
4. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2021). Báo cáo số 419/BC-UBND ngày 30/12/2021 về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng năm 2021.
5. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2022). Báo cáo số 413/BC-UBND ngày 26/12/2022 về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng năm 2022.
6. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2023). Báo cáo số 418/BC-UBND ngày 19/12/2023 về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng năm 2023.
7. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2024). Báo cáo số 482/BC-UBND ngày 20/12/2024 về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng năm 2024.