“Lý luận về đường lối đổi mới” trong nền tảng tư tưởng của Đảng: bước phát triển có ý nghĩa lịch sử

TS. Trương Quốc Việt
Học viện Hành chính và Quản trị công

(Quanlynhanuoc.vn) – Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng lần đầu tiên xác định “lý luận về đường lối đổi mới” là một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng, bên cạnh chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là bước phát triển có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu sự phát triển về tư duy lý luận và bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Từ khóa: Góp ý Văn kiện Đại hội Đảng, nền tảng tư tưởng, đường lối đổi mới, bước phát triển mới.

1. Đặt vấn đề

Lý luận về đường lối đổi mới được nêu rõ trong Dự thảo Báo cáo chính trị, đặc biệt tại mục 3, phần I (Bài học kinh nghiệm sau 40 năm đổi mới) và mục 2, phần II (Quan điểm chỉ đạo). Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng đã khẳng định lý luận về đường lối đổi mới: “Sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới. Lý luận về đường lối đổi mới là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…”

Cũng như trong quan điểm chỉ đạo thứ nhất, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; tự chủ chiến lược, đổi mới mô hình phát triển, lấy phát triển để ổn định, ổn định để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, nâng cao đời sống và hạnh phúc của Nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lý luận về đường lối đổi mới được cụ thể hóa thông qua các quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ trọng tâm mới, đó là: (1) Về vai trò trung tâm, phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm. (2) Về vai trò trọng yếu, tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên. (3) Về động lực phát triển, lấy khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia là động lực chính và phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất. (4) Về phát triển con người, văn hóa, con người là nền tảng, nguồn lực, sức mạnh nội sinh và là động lực to lớn, hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững.

2. Ý nghĩa của việc bổ sung “Lý luận về đường lối đổi mới”

Việc nâng tầm “lý luận về đường lối đổi mới” lên thành nền tảng tư tưởng là kết quả tất yếu của quá trình tổng kết 40 năm thực tiễn đổi mới thể hiện tầm nhìn, định hướng phát triển đất nước. Ý nghĩa của bước phát triển này được thể hiện ở những nội dung sau:

Một là, sự kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Lý luận về đường lối đổi mới là minh chứng sinh động cho việc Đảng không giáo điều, không rập khuôn thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo, cụ thể hóa các nguyên tắc, nguyên lý phổ quát của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng được điều chỉnh phù hợp với thực tiễn 40 năm đổi mới ở Việt Nam.

Sự bổ sung này khẳng định:

(1) Tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận về đường lối đổi mới đã tổng kết và hệ thống hóa những kinh nghiệm quý báu, những mô hình đột phá (như phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng). Đây là sự bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp với các quy luật khách quan và thực tiễn đất nước. Việc hệ thống hóa và nâng tầm các nhận thức này thành “lý luận” là sự khẳng định bản lĩnh tư duy và năng lực tổng kết thực tiễn của Đảng.

(2) Khẳng định bản lĩnh và sự chủ động thực hiện đổi mới của Đảng. Việc xác lập lý luận về đường lối đổi mới đã làm giàu thêm lý luận – tư tưởng của cách mạng Việt Nam, đồng thời, khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện, sáng suốt của Đảng trong việc kiên định con đường xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn mở ra khả năng phát triển năng động, sáng tạo. Là ngọn đuốc soi đường tiếp tục dẫn dắt dân tộc thực hiện thành công khát vọng phát triển.

Hai là, đáp ứng thực tiễn luôn sinh động, đặc biệt trong bối cảnh mới đòi hỏi sự linh hoạt và thích ứng cao.

Thế giới đang vận hành trong một trật tự “bình thường mới” đầy biến động (VUCA). Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt là chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo, đang định hình lại toàn bộ cấu trúc kinh tế, xã hội và quản trị. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt, tạo ra cả cơ hội và thách thức đan xen. Các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh mạng, an ninh con người… nổi lên như những thách thức toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, cần một hệ thống lý luận cụ thể, sắc bén, mang “hơi thở của thời đại” để giải quyết những vấn đề đang diễn ra. Lý luận về đường lối đổi mới giúp chúng ta định vị, thích ứng và vươn lên trong một thế giới phức tạp. Việc xác lập lý luận về đường lối đổi mới là nền tảng tư tưởng giúp Đảng có cơ sở lý luận vững chắc để:

(1) Xác lập mô hình tăng trưởng mới. Dự thảo Văn kiện đã nhấn mạnh mô hình tăng trưởng mới lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là động lực chính. Lý luận về đường lối đổi mới cung cấp cơ sở lý luận để thực hiện các chuyển đổi trọng tâm: chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực.

(2) Tăng cường tự chủ chiến lược và tự cường. Trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, Lý luận về đường lối đổi mới nhấn mạnh tinh thần tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin. Việc bổ sung đối ngoại, hội nhập quốc tế là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” ngang hàng với quốc phòng, an ninh cho thấy tầm nhìn chiến lược toàn diện, kết hợp sức mạnh nội lực là quyết định với nguồn lực bên ngoài là quan trọng.

Ứng phó với thách thức an ninh phi truyền thống. Các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng phức tạp. Lý luận về đường lối đổi mới với việc xác định bảo vệ môi trường là nhiệm vụ “trung tâm” cùng với phát triển kinh tế, xã hội, đã cung cấp cơ sở lý luận cho phát triển bền vững dựa trên 3 trụ cột (kinh tế, xã hội và môi trường). Điều này đồng nghĩa với việc cam kết không đánh đổi lợi ích ngắn hạn để bảo đảm lợi ích dài hạn.

Ba là, yêu cầu từ bối cảnh mới vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”.

Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 6,6%/năm giai đoạn 1986 – 2023. Theo dự báo năm 2025 quy mô nền kinh tế đạt trên 500 tỷ USD, đứng thứ 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người năm 2025, dự kiến trên 5000 USD. Khát vọng tới năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, nhưng theo Ngân hàng Thế giới (WB), trong hơn 30 năm qua, chỉ có 34 quốc gia vượt qua được bẫy thu nhập trung bình (1/3 quốc gia trong số này vượt qua được lại nhờ vào các yếu tố đặc thù như gia nhập Liên minh châu Âu hoặc phát hiện dầu mỏ). 108 quốc gia khác vẫn mắc kẹt trong bẫy “thu nhập trung bình”. Để vượt qua thách thức này, cần có một lý luận dẫn dắt mang tính đột phá và hành động quyết liệt.

Lý luận về đường lối đổi mới là cơ sở lý luận cho các quyết sách chiến lược mới trong Dự thảo nhằm tạo bước ngoặt phát triển.

(1) Mục tiêu tăng trưởng đột phá. Dự thảo đặt mục tiêu phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2026 – 2030 từ 10%/năm trở lên. Mục tiêu tăng trưởng hai con số này đòi hỏi phải hoán chuyển thách thức thành cơ hội. Lý luận về đường lối đổi mới khẳng định động lực chính phải là khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

(2) Khẳng định vai trò động lực quan trọng nhất của kinh tế tư nhân. Để thoát bẫy thu nhập trung bình, cần giải phóng và huy động tối đa mọi nguồn lực. Lý luận về đường lối đổi mới đã được bổ sung để làm nền tảng cho việc khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Đây là sự đột phá về tư duy, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, sáng tạo, và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội.

(3) Hoàn thiện thể chế phát triển. Thể chế chưa đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn được xác định là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”. Lý luận về đường lối đổi mới định hướng cho việc hoàn thiện thể chế chính trị là then chốt, thể chế kinh tế là trọng tâm, các thể chế khác là rất quan trọng. Sự đột phá này nằm ở việc xây dựng một hệ sinh thái thể chế tổng thể, minh bạch và pháp quyền, thay vì chỉ sửa đổi pháp luật rời rạc.

Bốn là, khẳng định sự phát triển tư duy của Đảng trong lãnh đạo và quản trị quốc gia qua tổng kết thực tiễn.

Việc bổ sung này thể hiện sự chuyển hóa từ tổng kết thực tiễn sang hệ thống hóa lý luận. Giai đoạn 2021 – 2025 là một giai đoạn “thử lửa” đặc biệt, với việc ứng phó đại dịch Covid-19, đối mặt với bất ổn kinh tế toàn cầu, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và đẩy mạnh quyết liệt cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lãng phí. Chính thực tiễn đó đã cung cấp dữ liệu thực tế để làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, về vai trò của Nhà nước trong tình huống khủng hoảng, mối quan hệ giữa nhà nước – thị trường – xã hội và tính cấp bách của cơ chế kiểm soát quyền lực. Việc hệ thống hóa những bài học này thành “lý luận” thể hiện sự chín muồi trong tư duy lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

3. Đề xuất những điểm cần bổ sung và làm rõ trong Dự thảo Văn kiện

Để lý luận về đường lối đổi mới thực sự phát huy vai trò nền tảng tư tưởng trong bối cảnh thách thức và cơ hội đan xen, cần bổ sung và làm rõ các điểm sau trong Dự thảo Văn kiện.

Một là, làm rõ cơ chế vận hành của “vai trò quyết định của thị trường”.

Dự thảo đã khẳng định vai trò quyết định của thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển. Tuy nhiên, để tránh sự can thiệp hành chính trực tiếp và khắc phục các hạn chế nội tại, lý luận về đường lối đổi mới cần làm rõ hơn cơ chế và ranh giới quản lý của Nhà nước. Văn kiện cần xác định rõ nội hàm “Nhà nước kiến tạo” là chủ động sử dụng thể chế và nguồn lực công để định hướng, dẫn dắt và tạo không gian cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Đồng thời, nhấn mạnh sự liêm chínhtrách nhiệm giải trình là điều kiện tiên quyết của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và là cơ chế nền tảng để kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực như thực tiễn giai đoạn 2021 – 2025 đã chứng minh.

Bổ sung cơ chế bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền. Cần có những nguyên tắc cụ thể hơn về việc Nhà nước sử dụng các công cụ thị trường (như thuế sinh thái, tín chỉ các-bon, chính sách vĩ mô) để điều tiết, thay vì các biện pháp hành chính, nhằm tạo môi trường cạnh tranh công bằng, đặc biệt là giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và FDI.

Cụ thể hóa việc phòng ngừa “lợi ích nhóm” và “tư duy nhiệm kỳ”. Đây là những hạn chế chủ quan được chỉ ra. Lý luận về đường lối đổi mới cần nhấn mạnh vai trò của kiểm soát quyền lực và minh bạch hóa thể chế (đặc biệt trong các lĩnh vực nhạy cảm như đất đai, tài nguyên, vốn) để bảo vệ tính quyết định của thị trường khỏi sự méo mó do tham nhũng, tiêu cực.

Hai là, định nghĩa chi tiết và giải pháp xây dựng “Đảng văn minh”.

Dự thảo đã bổ sung chủ trương “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh”. Đây là sự phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để hiện thực hóa điều này, lý luận về đường lối đổi mới cần:

(1) Làm rõ các tiêu chí cụ thể của “Đảng văn minh” trong quản trị hiện đại. Ngoài các yếu tố đạo đức (liêm chính, gương mẫu), cần nhấn mạnh các tiêu chí về tư duy khoa học, hiện đại; phương thức lãnh đạo dân chủ, hiệu quả; và khả năng ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn trong quản trị, điều hành để giám sát kết quả thực hiện nghị quyết, kiểm tra, giám sát trên dữ liệu.

(2) Cơ chế trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ. Dự thảo có đề cập việc lấy sự hài lòng, tín nhiệm của người dân làm tiêu chí đánh giá cán bộ và lấy ý kiến Nhân dân đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Lý luận về đường lối đổi mới nên thiết lập cơ chế cụ thể, bắt buộc và có tính hệ thống để Nhân dân tham gia giám sát việc thực hiện chuẩn mực đạo đức và văn minh của Đảng, đặc biệt đối với người đứng đầu.

Ba là, bổ sung cơ chế đột phá để tháo gỡ điểm nghẽn thể chế.

Lý luận về đường lối đổi mới đã xác định rõ tầm quan trọng của thể chế. Tuy nhiên, để khắc phục triệt để tình trạng thể chế phát triển còn chậm và chưa theo kịp thực tiễn, cần có sự bổ sung mang tính hành động cao hơn.

Cơ chế “thử nghiệm có kiểm soát” cần mở rộng. Dự thảo đã đề xuất thí điểm cơ chế này trong một số lĩnh vực mới như FinTech, AI. Cần mở rộng áp dụng cơ chế này (thí điểm vượt trội) cho các vấn đề quản trị mang tính liên ngành, nhằm nhanh chóng tháo gỡ các nút thắt pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn trong các lĩnh vực truyền thống (như đất đai, đầu tư) mà Dự thảo đã chỉ ra là còn chậm hoàn thiện.

Thiết lập thể chế liên thông giữa khu vực công và khu vực tư. Lý luận về đường lối đổi mới cần cung cấp nền tảng để Nhà nước có thể ban hành các chính sách đột phá, vượt trội, thu hút nhân tài và nguồn lực từ khu vực tư nhân vào các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Nhằm bảo đảm mọi chủ thể khu vực ngoài nhà nước đều có cơ hội tiếp cận công bằng và tham gia hợp tác công tư bình đẳng đặt tiêu chí chất lượng, hiệu quả lên trên hết, trước hết.

Bốn là, nâng cao vai trò chủ thể của Nhân dân trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Lý luận về đường lối đổi mới khẳng định Nhân dân là trung tâm, là chủ thể, và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong ba trụ cột của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Cụ thể hóa “Dân thụ hưởng” và “Dân giám sát”. Ngoài phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, cần làm rõ tiêu chí “dân thụ hưởng” không chỉ là phúc lợi vật chất (như giảm nghèo, nhà ở xã hội) mà còn là sự thụ hưởng các giá trị cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và sự phát triển toàn diện của con người. “Thụ hưởng” còn là bảo đảm cho người dân biết và sử dụng những quyền của mình đã được Hiến pháp và luật pháp quy định.

Tăng cường dân chủ ở cơ sở trong mô hình chính quyền hai cấp. Sau cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, cần làm rõ cơ chế để Nhân dân phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền cấp tỉnh và cấp xã, đặc biệt là thông qua các mô hình “tự quản – tự chủ – tự giám sát” tại cộng đồng dân cư.

4. Kết luận

Việc bổ sung “Lý luận về đường lối đổi mới” vào nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là hành động tổng kết thực tiễn 40 năm Đổi mới mà còn là quyết định chiến lược, thể hiện tầm nhìn đột phá về quản trị quốc gia trong bối cảnh thế giới nhiều biến động. Lý luận về đường lối đổi mới, với các trụ cột nền tảng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là cơ sở lý luận vững chắc để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Hà Nội.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương (2025). Hướng dẫn số 18-HD/BTGTW về việc lấy ý kiến nhân dân đóng góp vào Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Hà Nội.
3. Công bố toàn văn Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. https://dangcongsan.org.vn/xay-dung-dang/cong-bo-toan-van-du-thao-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiv-cua-dang.html