Phát huy sức mạnh văn hóa thành nguồn lực nội sinh và động lực phát triển – những điểm mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng

TS. Đào Thị Loan
Học viện Hành chính và Quản trị công
ThS. Trần Toàn Trung
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đang được lấy ý kiến rộng rãi trong toàn thể nhân dân, Dự thảo Văn kiện lần này đã có bước phát triển quan trọng về tư duy lý luận đối với văn hóa, coi văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội mà còn là một nguồn lực nội sinh và động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh, bền vững đất nước. So với Đại hội XIII, các nội dung về văn hóa trong Dự thảo lần này thể hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện và gắn kết chặt chẽ hơn giữa văn hóa, con người, hệ giá trị Việt Nam và công cuộc phát triển quốc gia trong bối cảnh chuyển đổi số, hội nhập quốc tế sâu rộng. Bài viết phân tích các điểm mới nổi bật về phát huy sức mạnh văn hóa trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, trên cơ sở đối chiếu với văn kiện Đại hội XIII và thực tiễn phát triển văn hóa nhiệm kỳ 2021 – 2025.

Từ khóa: Văn hóa, nguồn lực nội sinh, động lực phát triển, Đại hội XIV, hệ giá trị Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng luôn nhất quán quan điểm coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển bền vững. Đại hội XIII lần đầu tiên đưa vào Báo cáo Chính trị nội dung “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam” – đánh dấu bước chuyển quan trọng trong tư duy phát triển.

Bước sang nhiệm kỳ mới, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục kế thừa nhưng đồng thời mở rộng, phát triển tư duy đó ở tầm cao mới. Văn hóa không chỉ được xác định là nền tảng và mục tiêu mà còn là nguồn lực nội sinh chủ đạo gắn với phát triển kinh tế tri thức, công nghiệp văn hóa, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Việc phân tích những điểm mới này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, giúp nhận diện sự phát triển tư duy của Đảng về văn hóa trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

2. Thực tiễn phát triển văn hóa trong nhiệm kỳ khóa XIII và những kế thừa, phát triển trong tư duy của Đảng về văn hóa tại Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV

2.1. Thực tiễn phát triển văn hóa trong nhiệm kỳ khóa XIII

Trong nhiệm kỳ Đại hội XIII (2021 – 2025), công tác xây dựng và phát triển văn hóa nước ta đạt được nhiều kết quả quan trọng, phản ánh sự nỗ lực của toàn hệ thống chính trị trong hiện thực hóa chủ trương “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”1. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đến nay 100% các tỉnh, thành phố đã ban hành kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, bảo đảm sự thống nhất về định hướng và lộ trình thực hiện trên phạm vi cả nước. Các phong trào xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục phát triển mạnh; 85% gia đình và 72% thôn, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa, cho thấy văn hóa đã trở thành nền tảng tinh thần trong đời sống xã hội.

Cùng với đó, công nghiệp văn hóa bước đầu phát huy vai trò trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp của công nghiệp văn hóa vào GDP Việt Nam đã tăng từ 2,44% năm 2010 lên 3,61% năm 2018 và đạt 6,02% năm 2019, trước khi duy trì ổn định ở mức khoảng 4% trong giai đoạn 2020 ‑ 2023 do tác động của đại dịch2, tập trung ở các lĩnh vực du lịch, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, thiết kế và trò chơi điện tử,… Các di sản văn hóa tiếp tục được bảo tồn, phát huy giá trị, trong đó 10 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận3 đều được đầu tư, quản lý và khai thác gắn với phát triển du lịch bền vững. Ngoài ra, ngoại giao văn hóa được mở rộng với hơn 30 quốc gia tổ chức sự kiện quảng bá hình ảnh Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế, uy tín và sức mạnh mềm của đất nước trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, những hạn chế vẫn tồn tại đáng chú ý, như: văn hóa chưa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh cho phát triển, thể hiện ở việc đầu tư ngân sách cho văn hóa còn thấp (dưới 2% tổng chi ngân sách), thể chế quản lý văn hóa chậm đổi mới, cơ chế khuyến khích sáng tạo chưa đồng bộ và công nghiệp văn hóa phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Bên cạnh đó, một số biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống và sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai vẫn ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội.

Nhìn chung, thực tiễn nhiệm kỳ XIII cho thấy văn hóa Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể về thể chế, hoạt động và hội nhập quốc tế nhưng vẫn cần đột phá mạnh mẽ hơn để thực sự trở thành động lực nội sinh của phát triển bền vững trong giai đoạn tới.

2.2. Tiếp tục kế thừa định hướng chiến lược từ Đại hội XIII

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định văn hóa là một trụ cột chiến lược trong phát triển đất nước, khẳng định rõ: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”4. Quan điểm này thể hiện bước kế thừa và phát triển sâu sắc tư tưởng văn hóa của Đảng từ Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) (năm 1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc – văn bản đầu tiên khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội” và Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa IX) (năm 2014), nhấn mạnh nhiệm vụ “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.

So với các giai đoạn trước, Đại hội XIII đã mở rộng phạm vi nhận thức, coi văn hóa không chỉ là lĩnh vực xã hội mà là nguồn lực trực tiếp của tăng trưởng và phát triển bền vững. Tư duy đó được cụ thể hóa thành năm định hướng lớn: (1) Phát triển con người Việt Nam toàn diện, có lý tưởng, bản lĩnh và năng lực hội nhập; (2) Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị và toàn xã hội; (3) Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; (4) Thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa gắn với xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh; (5) Hình thành, lan tỏa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới. 

3. Những điểm mới nổi bật trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV về phát huy sức mạnh văn hóa

3.1. Những điểm mới nổi bật trong Dự thảo Văn kiện

Trong các văn kiện trước đây, Đảng ta nhất quán khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, tư duy này đã được phát triển lên một tầm cao mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV, khi văn hóa được xác định là nguồn lực nội sinh quan trọng, động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững đất nước5. Sự thay đổi về cách tiếp cận này phản ánh quá trình chuyển hóa từ việc xem văn hóa là “nền tảng tinh thần” sang yếu tố cấu thành trực tiếp của mô hình phát triển quốc gia, đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển tư duy văn hóa của Đảng, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện năm điểm mới nổi bật sau:

Thứ nhất, điểm mới trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV là tư duy kinh tế hóa giá trị văn hóa, coi văn hóa không chỉ là lĩnh vực tiêu dùng tinh thần mà còn là nguồn tạo sinh giá trị vật chất và sức mạnh mềm quốc gia.

Văn hóa được xem là thành tố của chuỗi giá trị sáng tạo, tạo ra năng lực cạnh tranh mới trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa. Đồng thời, văn hóa cũng là “chất keo” gắn kết xã hội, củng cố lòng tin, sự đồng thuận và bản sắc dân tộc,… những yếu tố quyết định năng lực tự cường của quốc gia. Dự thảo Đại hội XIV thể hiện bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng: từ việc xem văn hóa là yếu tố hỗ trợ phát triển, đến việc xác định văn hóa là động lực chủ động, bền vững của phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Thứ hai, mở rộng khái niệm “văn hóa” sang phạm vi hệ giá trị và sức mạnh mềm quốc gia.

Lần đầu tiên, văn kiện Đại hội đưa văn hóa vào khung cấu trúc “hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới”6. Điều này cho thấy tư duy văn hóa của Đảng đã phát triển từ phạm trù “văn hóa dân tộc” sang hệ thống giá trị mang tính nền tảng xã hội – chính trị – nhân văn, làm trụ cột cho phát triển quốc gia hiện đại. Dự thảo nhấn mạnh việc phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam để tăng cường vị thế, uy tín và ảnh hưởng quốc tế của đất nước. So với Đại hội XIII, đây là sự mở rộng về không gian tác động của văn hóa: không chỉ hướng nội (củng cố khối đại đoàn kết, xây dựng con người) mà còn hướng ngoại (thúc đẩy ngoại giao văn hóa, hội nhập giá trị Việt Nam vào thế giới).

Thứ ba, xác định rõ hơn mối quan hệ giữa văn hóa, con người và phát triển bền vững. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định: “Phát triển nguồn lực con người, phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng, sức mạnh nội sinh, động lực to lớn cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”7.

So với Đại hội XIII, điểm mới nằm ở việc liên kết chặt chẽ văn hóa – con người – phát triển bền vững, thể hiện bước tiến trong tư duy phát triển toàn diện. Văn hóa được nhìn nhận không chỉ là kết quả mà là điều kiện tạo nên con người phát triển, xã hội phát triển và quốc gia phát triển. Đây cũng là lần đầu tiên các khái niệm “nguồn lực nội sinh”“động lực phát triển” được đặt trong cùng mệnh đề với văn hóa, thể hiện tư duy tích hợp giữa phát triển vật chất và phát triển tinh thần, giữa kinh tế và văn hóa.

Thứ tư, nhấn mạnh phát triển công nghiệp văn hóa và kinh tế di sản.

Một điểm mới nổi bật là Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã cụ thể hóa định hướng phát triển công nghiệp văn hóa và kinh tế di sản như một trụ cột mới của nền kinh tế tri thức. Dự thảo Văn kiện nêu rõ yêu cầu “Từng bước xây dựng, phát triển…công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản;…”8. So với Đại hội XIII, cách tiếp cận này mang tính hệ thống và thực hành, khi văn hóa không chỉ là lĩnh vực bảo tồn mà trở thành ngành kinh tế chiến lược. Điều này phù hợp với xu thế quốc tế mà UNESCO gọi là “culture for development” – văn hóa như động lực trực tiếp của tăng trưởng bền vững.

Thứ năm, đặt văn hóa trong tổng thể sức mạnh quốc gia, gắn với an ninh tư tưởng và bản sắc dân tộc.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV mở rộng phạm vi của khái niệm “văn hóa” sang mối quan hệ với “an ninh tư tưởng”, “bản sắc dân tộc” và “chủ quyền giá trị”. Văn hóa trở thành yếu tố cấu thành “sức mạnh tổng hợp quốc gia”10, là lá chắn mềm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số. Đây là điểm khác biệt rõ so với Đại hội XIII, khi văn hóa không chỉ được xem là lĩnh vực xã hội mà là không gian an ninh tư tưởng – bản sắc – giá trị của quốc gia.

3.2. Ý nghĩa của những điểm mới về văn hóa trong Dự thảo Đại hội XIV

Những điểm mới về văn hóa được nêu trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng thể hiện bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận và định hướng chiến lược của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước.

Trước hết, về chiều sâu lý luận, văn hóa được tái định vị như một nguồn lực phát triển quốc gia, không chỉ là sản phẩm tinh thần mà còn là yếu tố nội sinh cấu thành mô hình phát triển bền vững. Quan điểm này tiếp nối tư tưởng được khẳng định từ Đại hội XIII nhưng nhấn mạnh hơn mối quan hệ hữu cơ giữa văn hóa, con người và tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh mới.

Về chiều rộng chính sách, văn hóa được mở rộng phạm vi tác động sang các lĩnh vực công nghiệp sáng tạo, kinh tế số, ngoại giao và hội nhập quốc tế, cho thấy sự chuyển dịch từ nhận thức văn hóa như lĩnh vực xã hội sang coi văn hóa là thành tố của sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Cùng với đó, về chiều cao giá trị, Dự thảo khẳng định văn hóa là nền tảng hệ giá trị và sức mạnh mềm, có vai trò bảo vệ bản sắc dân tộc, củng cố lòng dân và tăng cường niềm tin xã hội  những yếu tố cốt lõi tạo nên sự bền vững của chế độ.

Xét một cách tổng thể, các điểm mới này thể hiện bước tiến trong tư duy chính trị – văn hóa – phát triển, hướng tới mô hình phát triển tổng hợp, nhân văn và bền vững, trong đó văn hóa giữ vai trò trung tâm của sức mạnh nội sinh dân tộc.

4. Một số khuyến nghị nhằm hiện thực hóa tư duy mới của Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV về phát huy sức mạnh văn hóa

Để hiện thực hóa quan điểm mới của Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng về việc phát huy văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh và động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước, cần có những giải pháp đồng bộ, mang tính chiến lược, vừa bảo đảm tính định hướng chính trị, vừa phù hợp với thực tiễn phát triển của thời kỳ mới.

Một là, cần thể chế hóa kịp thời chủ trương “phát huy sức mạnh văn hóa” thành các chính sách, chương trình và công cụ pháp lý cụ thể. Ngay sau khi Dự thảo Văn kiện được Đại hội biểu quyết thông qua, Nhà nước cần ban hành các cơ chế ưu đãi về đầu tư, tín dụng và thuế để khuyến khích phát triển các lĩnh vực văn hóa sáng tạo; đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa. Việc hoàn thiện thể chế không chỉ dừng ở việc ban hành văn bản mà phải bảo đảm tính khả thi, gắn kết giữa chính sách văn hóa với chiến lược phát triển con người và kinh tế tri thức.

Hai là, cần xây dựng Chương trình quốc gia về phát triển công nghiệp văn hóa và văn hóa số giai đoạn 2026 – 2035, hướng tới hình thành các chuỗi giá trị sáng tạo và thị trường văn hóa lành mạnh. Đây là bước cụ thể hóa Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030, góp phần gia tăng tỷ trọng đóng góp của văn hóa trong GDP, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế sáng tạo.

Ba là, đổi mới căn bản công tác giáo dục giá trị văn hóa, đạo đức và lối sống, hình thành hệ giá trị Việt Nam thống nhất, hiện đại và nhân văn. Hệ giá trị này cần được tích hợp trong giáo dục phổ thông, truyền thông đại chúng và hoạt động cộng đồng, góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có bản lĩnh, năng lực sáng tạo và tinh thần cống hiến.

Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo của Nhân dân, coi Nhân dân là trung tâm và chủ thể của mọi hoạt động văn hóa. Cần khuyến khích các sáng kiến văn hóa từ cơ sở, gắn phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” với việc thực hiện các chương trình phát triển bền vững.

Năm là, tăng cường nghiên cứu khoa học, điều tra và thống kê văn hóa quốc gia, tạo cơ sở dữ liệu để lượng hóa đóng góp của văn hóa vào tăng trưởng kinh tế – xã hội. Việc này giúp hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng khoa học, khẳng định vị thế của văn hóa như một nguồn lực phát triển thực chất và bền vững trong thời kỳ mới.

5. Kết luận

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng thể hiện bước phát triển đột phá trong tư duy về văn hóa, đưa văn hóa từ vị trí “nền tảng tinh thần” lên thành “nguồn lực nội sinh, động lực phát triển mạnh mẽ của đất nước”. Dự thảo Văn kiện đã xác định rõ quan hệ giữa văn hóa – con người – hệ giá trị – phát triển bền vững, mở ra hướng tiếp cận mới: phát triển văn hóa như trụ cột chiến lược của quốc gia hiện đại, thịnh vượng, nhân văn.

Việc cụ thể hóa tư duy này vào thực tiễn phát triển đòi hỏi hệ thống chính trị, các ngành, các cấp phải đổi mới tư duy quản lý, đầu tư thích đáng, phát huy trí tuệ và sáng tạo của nhân dân, để văn hóa thật sự trở thành sức mạnh mềm và nguồn lực nội sinh cho công cuộc phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Chú thích:
1, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/bo-chinh-tri-ban-bi-thu-ban-chap-hanh-trung-uong/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii.
2. Huy động nguồn lực cho công nghiệp văn hóa, chìa khóa bứt phá kinh tế sáng tạo Việt Nam. https://vietnamhoinhap.vn/vi/huy-dong-nguon-luc-cho-cong-nghiep-van-hoa–chia-khoa-but-pha-kinh-te-sang-tao-viet-nam-53636.htm.
3. Các lĩnh vực văn hóa – xã hội có bước tiến bộ cả về nhận thức, hành động và kết quả, công nghiệp giải trí đang trên đà phát triển. https://bvhttdl.gov.vn/cac-linh-vuc-van-hoa-xa-hoi-co-buoc-tien-bo-ca-ve-nhan-thuc-hanh-dong-va-ket-qua-cong-nghiep-van-hoa-giai-tri-dang-tren-da-phat-trien-20251020111722602.htm.
5, 6, 7, 8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025). Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 19, 23, 49, 24, 34.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (1988). Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2014). Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Hội nghị lần thứ 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.