TS. Lưu Mai Hoa
Trường Đại học Nha Trang
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học tại tỉnh Khánh Hòa trong bối cảnh triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Từ đó, đề xuất định hướng, giải pháp nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giai đoạn mới.
Từ khóa: Nghị quyết số 57-NQ/TW, nguồn nhân lực, giáo dục đại học, chiến lược phát triển, Khánh Hòa.
1. Đặt vấn đề
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ và chuyển đổi số đang định hình lại mô hình tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định ba đột phá chiến lược mới của quốc gia là khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, coi đây là những động lực chủ yếu để đạt được phát triển nhanh và bền vững. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục đại học được xem là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa tầm nhìn đó.
Đối với tỉnh Khánh Hòa, Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/02/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nêu rõ: tỉnh trở thành trung tâm lớn về kinh tế biển, khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và đào tạo nhân lực chất lượng cao của cả nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đội ngũ nhân lực khoa học – công nghệ, đặc biệt là trong các cơ sở giáo dục đại học còn nhiều hạn chế cả về số lượng, chất lượng và kỹ năng số. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học tại Khánh Hòa là hết sức cấp thiết nhằm góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW, tạo nền tảng cho quá trình đổi mới giáo dục, phát triển khoa học – công nghệ và hội nhập quốc tế.
2. Cơ sở lý luận và quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học
Nguồn nhân lực giáo dục đại học được hiểu là tổng thể đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, quản lý và phục vụ đào tạo tại các cơ sở thực hiện mục tiêu giáo dục đại học. Đây là lực lượng có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng và phẩm chất nghề nghiệp nhất định, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình giáo dục và nghiên cứu khoa học. Theo quan điểm phát triển bền vững, chất lượng nguồn nhân lực giáo dục đại học không chỉ được đánh giá qua số lượng hay trình độ mà còn thể hiện ở năng lực đổi mới sáng tạo, khả năng thích ứng với công nghệ mới và mức độ hội nhập quốc tế.
Đặc điểm nổi bật của nguồn nhân lực giáo dục đại học hiện nay là hàm lượng tri thức và tính chuyên môn hóa cao; có vai trò nòng cốt trong phát triển xã hội học tập và nền kinh tế tri thức. Đội ngũ này là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo, chuyển giao tri thức, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu đối với nguồn nhân lực giáo dục đại học không chỉ dừng ở tri thức chuyên môn gồm: năng lực số, tư duy sáng tạo, kỹ năng liên ngành và khả năng hợp tác quốc tế.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học là quá trình toàn diện, bao gồm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ, giảng viên và nhà khoa học nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia.
Nghị quyết số 57-NQ/TW đã đề ra bảy nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn, trong đó nhấn mạnh việc phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Đồng thời, Nghị quyết nhấn mạnh: “Tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia… Xây dựng một số trường, trung tâm đào tạo tiên tiến chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo. Có cơ chế đặc thù về hợp tác công – tư trong đào tạo nhân lực công nghệ số. Xây dựng nền tảng giáo dục, đào tạo trực tuyến, mô hình giáo dục đại học số, nâng cao năng lực số trong xã hội. Phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chíp bán dẫn, vi mạch, kỹ thuật và công nghệ then chốt; đẩy mạnh hợp tác với các đại học uy tín của nước ngoài; đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, hiện đại hóa phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là trí tuệ nhân tạo”.
Trên tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó nhấn mạnh giải pháp: “Rà soát, sửa đổi, bổ sung Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 – 2030, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới”; “Rà soát, sửa đổi quy định về tiêu chuẩn, quy trình công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư, tăng quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục đại học và tạo thuận lợi cho thu hút, tuyển dụng giảng viên xuất sắc gắn với bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư”; “… phát triển mô hình giáo dục đại học số kết hợp ứng dụng các công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, không gian ảo…”.
Quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước, ngày 20/02/2025, Tỉnh ủy Khánh Hòa ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TU về thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó, khẳng định: “Phối hợp, hỗ trợ để phát huy tối đa nguồn lực từ các viện, các trung tâm nghiên cứu, các trường Đại học trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo đóng góp vào sự phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo của tỉnh”; “Xây dựng nền tảng giáo dục, đào tạo trực tuyến, mô hình giáo dục đại học số, nâng cao năng lực số trong xã hội. Đẩy nhanh việc triển khai Đề án Nâng cấp Trường Đại học Nha Trang thành Đại học vùng gắn với định hướng phát triển một số ngành đào tạo trọng điểm ngang tầm với các nước phát triển ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”.
3. Thực trạng nguồn nhân lực giáo dục đại học tại Khánh Hòa
Thứ nhất, về quy mô và cơ cấu nhân lực. Trong giai đoạn 2020 – 2025, hệ thống giáo dục đại học trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa gồm một số cơ sở tiêu biểu: Trường Đại học Nha Trang, Trường Đại học Khánh Hòa, Trường Đại học Thông tin liên lạc, Học viện Hải quân, Trường Đại học Thái Bình Dương, Phân hiệu Trường Đại học Tôn Đức Thắng tại Khánh Hòa.
Theo số liệu tổng hợp từ nguồn Ba công khai năm 2024 của các trường: Trường Đại học Nha Trang, Trường Đại học Khánh Hòa, Trường Đại học Thông tin liên lạc, lực lượng cán bộ, giảng viên hiện nay đạt khoảng 1.330 người, trong đó: trình độ tiến sĩ là 254 người, chiếm 20,2% (có 2 giáo sư, 45 phó giáo sư), trình độ thạc sĩ là 667 người, chiếm 51,3%, khoảng 28,5% còn lại có trình độ đại học hoặc tương đương (chủ yếu ở các khoa thực hành, kỹ thuật ứng dụng)1. So với các địa phương lớn trên cả nước, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…, cơ cấu đội ngũ này vẫn thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực nghiên cứu chuyên sâu trong các ngành công nghệ cao, công nghệ biển, trí tuệ nhân tạo (AI), logistics và chuyển đổi số là những lĩnh vực được xác định là trọng tâm phát triển của tỉnh.
Bên cạnh đó, sự phân bố nhân lực giữa các lĩnh vực chưa cân đối: các ngành kỹ thuật – công nghệ chiếm khoảng 32%, kinh tế – quản trị – du lịch chiếm trên 45%, xã hội nhân văn và giáo dục chiếm gần 20%2. Điều này cho thấy, định hướng đào tạo vẫn còn nặng về các lĩnh vực dịch vụ truyền thống, trong khi nguồn nhân lực cho khoa học – công nghệ ứng dụng và đổi mới sáng tạo còn thiếu hụt đáng kể.
Thứ hai, về năng lực nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và hợp tác.
Năng lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên còn khiêm tốn. Số lượng đề tài cấp tỉnh, cấp bộ có sự tham gia chủ trì của giảng viên đại học địa phương còn rất hạn chế. Hoạt động nghiên cứu mới dừng lại ở mức ứng dụng nội bộ, chưa hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh hay các đề tài mang tính đột phá.
Năng lực đổi mới sáng tạo chưa được phát huy đồng bộ. Hầu hết các trường đại học chưa hình thành trung tâm đổi mới sáng tạo hoặc vườn ươm khởi nghiệp, dù tỉnh Khánh Hòa đã có định hướng phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo từ năm 2022. Việc triển khai chuyển đổi số trong quản trị, giảng dạy và nghiên cứu còn mang tính đơn lẻ, phụ thuộc vào dự án tài trợ hoặc giai đoạn đầu tư hạ tầng. Giảng viên và sinh viên thiếu kỹ năng về khai thác dữ liệu lớn, sử dụng nền tảng học tập trực tuyến, công cụ AI hỗ trợ giảng dạy và nghiên cứu.
Hoạt động hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp địa phương còn rời rạc. Các trường đại học chủ yếu liên kết với doanh nghiệp trong đào tạo thực tập, chưa hình thành cơ chế đồng nghiên cứu – đồng sở hữu kết quả hay chuyển giao công nghệ có giá trị kinh tế. Doanh nghiệp trong tỉnh còn nhỏ và vừa, thiếu năng lực đầu tư cho nghiên cứu – phát triển (R&D) nên việc đặt hàng nghiên cứu từ các trường đại học còn rất hạn chế.
Thứ ba, về chính sách, cơ chế phát triển nhân lực.
Hiện nay, các trường đại học trên địa bàn đã ban hành một số quy chế phát triển đội ngũ giảng viên (như quy hoạch cán bộ khoa học, tiêu chuẩn chức danh, khuyến khích học tập nâng cao trình độ, hỗ trợ nghiên cứu khoa học). Tuy nhiên, chính sách tài chính, đãi ngộ và thu hút nhân tài vẫn còn cứng nhắc, thiếu tính cạnh tranh so với các trung tâm đại học lớn, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Mức thu nhập bình quân của giảng viên cơ hữu ở Khánh Hòa còn thấp so với mặt bằng chi phí sinh hoạt địa phương, khiến hiện tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực công sang tư nhân hoặc ra ngoài phạm vi tỉnh diễn ra âm thầm nhưng đáng lo ngại.
Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đồng bộ. Nhiều phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, trung tâm học liệu còn thiếu trang thiết bị hiện đại; mạng lưới thư viện điện tử, kho dữ liệu nghiên cứu dùng chung chưa hình thành. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng triển khai các đề tài nghiên cứu liên ngành, đa lĩnh vực.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng lại đội ngũ giảng viên tuy có tiến bộ, nhưng phần lớn vẫn theo hướng truyền thống, chưa chú trọng phát triển kỹ năng mềm, kỹ năng quản trị học thuật, kỹ năng số và ngoại ngữ học thuật. Theo kết quả khảo sát năm 2025 tại Trường Đại học Nha Trang, chỉ 38% giảng viên tự đánh giá mình có khả năng sử dụng thành thạo các công cụ dạy học số (LMS, Zoom, Miro, Canva, ChatGPT…) và 26% thường xuyên tham gia hội thảo khoa học quốc tế3.
Thứ tư, về tác động của bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Khánh Hòa đang ở giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ về kinh tế số và du lịch thông minh. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục đại học địa phương chưa thực sự trở thành trung tâm tri thức của quá trình chuyển đổi số này. Nguyên nhân một phần do năng lực công nghệ số của giảng viên chưa cao, một phần do thiếu chiến lược liên kết vùng, chưa có chính sách đồng bộ gắn kết giữa nhà trường – doanh nghiệp – chính quyền. Mặt khác, yêu cầu hội nhập quốc tế đang mở ra cơ hội lớn nhưng cũng tạo ra áp lực mới cho giáo dục đại học. Việc tham gia mạng lưới nghiên cứu quốc tế, các chương trình liên kết đào tạo song phương hay công nhận tín chỉ, bằng cấp xuyên quốc gia đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải đạt trình độ ngoại ngữ, năng lực nghiên cứu và chuẩn đầu ra cao hơn. Hiện nay, mới có khoảng 15 – 20% giảng viên đại học tại Khánh Hòa đạt chuẩn tiếng Anh B2 hoặc tương đương, con số này thấp hơn đáng kể so với yêu cầu để hội nhập vào mạng lưới khoa học toàn cầu4.
Nguyên nhân của hạn chế là do chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài chưa đủ hấp dẫn, đặc biệt đối với giảng viên, nhà khoa học trẻ có trình độ cao. Nguồn lực tài chính và hạ tầng nghiên cứu còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu triển khai các đề tài ứng dụng công nghệ cao. Sự phối hợp giữa Nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp trong phát triển nhân lực còn yếu, thiếu các cơ chế chia sẻ thông tin, lợi ích và trách nhiệm. Chưa hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cấp địa phương dẫn đến việc đào tạo và nghiên cứu thiếu gắn kết với nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động.
4. Định hướng phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học tại tỉnh Khánh Hòa
Một là, phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học phải gắn với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong kỷ nguyên số. Đội ngũ giảng viên, nhà khoa học không chỉ có trình độ chuyên môn sâu mà còn phải có năng lực số, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực cần được đặt trong mối quan hệ hữu cơ giữa Nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ giữa đào tạo, nghiên cứu và sử dụng lao động. Cơ chế, chính sách phải hướng đến phát huy vai trò chủ thể của các cơ sở giáo dục đại học, khuyến khích tự chủ, sáng tạo và gắn kết với thực tiễn địa phương.
Ba là, xây dựng đội ngũ nhân lực giáo dục đại học Khánh Hòa theo hướng mở, linh hoạt và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học – công nghệ, kinh tế biển, du lịch thông minh, logistics và các ngành công nghiệp công nghệ cao.
Bốn là, bảo đảm sự đầu tư đồng bộ về thể chế, tài chính và hạ tầng đổi mới sáng tạo, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục đại học phát triển thành trung tâm tri thức, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của khu vực duyên hải Nam Trung Bộ.
5. Một số giải pháp
Để hiện thực hóa các định hướng trên, cần triển khai đồng bộ giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nhân lực. Ban hành cơ chế đặc thù của tỉnh về thu hút và trọng dụng nhân tài, nhất là giảng viên, nhà khoa học có trình độ tiến sĩ và chuyên gia quốc tế. Thành lập Quỹ phát triển nhân tài khoa học – công nghệ Khánh Hòa nhằm hỗ trợ nghiên cứu, đào tạo sau đại học và trao đổi học thuật quốc tế. Đồng thời, xây dựng chính sách “đặt hàng” đào tạo nhân lực theo nhu cầu phát triển của địa phương.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và nhà khoa học. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng lực số, năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế; khuyến khích hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, liên ngành trong các lĩnh vực ưu tiên, như: công nghệ biển, du lịch thông minh, quản lý công, công nghệ số và đổi mới sáng tạo. Cần có cơ chế khuyến khích giảng viên tham gia đề tài khoa học – công nghệ của doanh nghiệp để tăng tính ứng dụng và thực tiễn.
Thứ ba, tăng cường liên kết giữa cơ sở giáo dục đại học, doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Hình thành trung tâm hợp tác đổi mới sáng tạo đại học – doanh nghiệp – địa phương. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, đặt hàng nghiên cứu và tài trợ học bổng cho sinh viên.
Thứ tư, phát triển hạ tầng số và môi trường đổi mới sáng tạo. Đầu tư đồng bộ các phòng thí nghiệm số, trung tâm dữ liệu, thư viện điện tử và kho học liệu dùng chung giữa các trường. Xây dựng cơ chế chia sẻ tài nguyên khoa học, dữ liệu nhân lực và nền tảng kết nối nghiên cứu. Phát triển không gian sáng tạo mở (OpenLab) và vườn ươm khởi nghiệp trong trường đại học.
Thứ năm, thúc đẩy quốc tế hóa giáo dục đại học. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu; triển khai các chương trình liên kết đào tạo, đồng hướng dẫn luận án với các trường đại học uy tín ở khu vực và thế giới. Khuyến khích giảng viên, sinh viên tham gia hội thảo, khóa tập huấn quốc tế; đồng thời mở rộng mạng lưới hợp tác khoa học trong khu vực ASEAN, đặc biệt về khoa học biển và công nghệ số.
6. Kết luận
Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học tại tỉnh Khánh Hòa góp phần thực hiện mục tiêu phát triển Khánh Hòa trở thành trung tâm khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và đào tạo nhân lực chất lượng cao của khu vực duyên hải Nam Trung Bộ. Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ về cơ chế, chính sách; đầu tư thích đáng cho hạ tầng nghiên cứu – đổi mới sáng tạo; đồng thời, chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học có năng lực số, tư duy sáng tạo và khả năng hội nhập quốc tế. Khi các giải pháp được thực hiện một cách nhất quán và hiệu quả, đội ngũ nhân lực giáo dục đại học Khánh Hòa sẽ trở thành lực lượng trí thức nòng cốt, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, thúc đẩy nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, qua đó tạo nền tảng tri thức vững chắc cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Chú thích:
1. Tác giả tổng hợp số liệu từ nguồn Ba công khai năm 2024 của: Trường Đại học Nha Trang, Trường Đại học Khánh Hòa, Trường Đại học Thông tin liên lạc, 2025.
2, 4. Tác giả tổng hợp số liệu từ nguồn Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Nha Trang, Trường Đại học Khánh Hòa và Báo cáo tổng kết công tác đào tạo năm học 2023 – 2024 của Trường Đại học Thông tin liên lạc.
3. Trường Đại học Nha Trang (2023). Báo cáo thường niên 2022 – 2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/01/2022 về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Chính phủ (2025). Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
4. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 48-NQ/TU ngày 20/02/2025 về thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
5. Trường Sĩ quan Thông tin (2024). Báo cáo tổng kết công tác đào tạo năm học 2023 – 2024.
6. Trường Đại học Nha Trang (2024). Báo cáo thường niên năm 2024.
7. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa (2022). Quyết định số 1165/QĐ-UBND ngày 29/4/2022 về việc ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình hành động của Chính phủ và Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
8. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa (2023). Báo cáo tình hình phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Khánh Hòa năm 2022 và phương hướng năm 2023.



