Chính sách công trong phát huy ảnh hưởng của tài chính vi mô đối với quản trị doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam

ThS. Trần Thu Hà
Học viện Hành chính và Quản trị công
Vũ Đăng Quang
Trường PTTH chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ theo hướng bền vững, các chính sách tài chính vi mô cần được đặt trong khuôn khổ quản lý nhà nước rõ ràng, có sự phối hợp giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và chính quyền địa phương. Phát triển doanh nghiệp nhỏ được xác định là chiến lược lâu dài, nhiệm vụ trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn từ tổ chức tài chính chính thức là ngân hàng do yêu cầu cao về tài sản bảo đảm và hồ sơ tín dụng. Do đó, việc phát huy vốn từ các tổ chức tài chính vi mô là giải pháp cần được nghiên cứu để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ phát triển.

Từ khóa: Chính sách, quản lý nhà nước, tài chính vi mô, phi tài chính, doanh nghiệp nhỏ, Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Việt Nam xuất phát điểm là nước nghèo nhưng có sự phát triển mạnh trong 20 năm gần đây với tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức cao. Sự đóng góp của doanh nghiệp nhỏ đối với phát triển kinh tế được khẳng định ở mức độ không nhỏ, bởi vì, có đến 97% doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tổng số các doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế của Việt Nam (VIN, 2025)1. Theo đó, các doanh nghiệp nhỏ tạo việc làm, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, đặc biệt là người dân khu vực nông thôn, thu nhập thấp.

Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam đã triển khai giải pháp về tài chính vi mô giúp các doanh nghiệp nhỏ tiếp cận vốn, khắc phục thiếu hụt vốn trong ngắn hạn, nâng cao năng lực quản trị, sản xuất kinh doanh để thực hiện mục tiêu phát triển. Số liệu thống kê, phân tích của VMWG (2022)2, cho thấy, hơn 60% doanh nghiệp nhỏ Việt Nam tiếp cận thành công dịch vụ tài chính vi mô; điều đó, giúp doanh nghiệp nhỏ phát triển năng lực và mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh.

Mặc dù tài chính vi mô đã chứng tỏ vai trò, ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ trong thực tiễn nền kinh tế, nhưng chủ yếu vẫn là sự hỗ trợ về tài chính trong ngắn hạn. Trong khi công nghệ số, xã hội số đang là xu hướng phát triển đã đặt ra nhiều yêu cầu về năng lực quản trị, điều hành, quy mô phát triển sản xuất, kinh doanh và doanh nghiệp nhỏ cần được hỗ trợ ở khía cạnh phi tài chính. Đây là khoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để tìm ra giải pháp chính sách phù hợp, thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ phát triển bền vững.

2. Tổng quan nghiên cứu

Các nghiên cứu gần đây cho thấy, hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng, nhưng mức độ lan tỏa chính sách còn chưa đồng đều giữa các vùng và nhóm đối tượng (Hoang & Creedy, 2020)3. Điều này đòi hỏi việc hoàn thiện khung pháp lý theo hướng minh bạch hóa tiêu chuẩn hoạt động, tăng cường giám sát, mở rộng khả năng cấp phép đối với các tổ chức tài chính vi mô bán chính thức. Một số chương trình tài chính vi mô hiện hành đã chứng minh tác động tích cực đến doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ.

Báo cáo của ADB (2022)4 cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp nữ làm chủ tại Việt Nam tiếp cận được vốn vi mô cao hơn khi các địa phương có triển khai chính sách hỗ trợ theo Nghị định số 39/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của tài chính vi mô. Điều này khẳng định vai trò then chốt của cơ chế chính sách trong tăng cường khả năng tiếp cận tài chính và thúc đẩy bình đẳng kinh tế. Ngoài các hỗ trợ tài chính, các chương trình phi tài chính như đào tạo quản trị, hỗ trợ thị trường và nâng cao kỹ năng số cho doanh nghiệp nhỏ đóng vai trò mang tính dài hạn. Putzeys (2002)5 từng chỉ ra rằng tác động bền vững của tài chính vi mô tại Việt Nam phụ thuộc vào mức độ doanh nghiệp được hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực tổ chức. Gần đây hơn, Bui Thanh (2021)6 khẳng định, các chương trình đào tạo quản trị dành cho doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là phụ nữ kinh doanh, mang lại hiệu quả sâu rộng hơn nhiều so với chỉ hỗ trợ vốn.

Từ các phân tích trên, có thể thấy, các chính sách tài chính vi mô cần được thiết kế theo hướng song hành: (1) hỗ trợ tài chính giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn trước mắt; (2) đồng thời, hỗ trợ phi tài chính nâng cao năng lực quản trị, giúp doanh nghiệp thực hiện mục tiêu dài hạn. Điều này hàm ý các địa phương cần triển khai mô hình tích hợp giữa cung cấp vốn, hỗ trợ quản trị, kết nối thị trường và tiếp cận công nghệ, nhằm tạo nền tảng cho doanh nghiệp nhỏ phát triển bền vững trong bối cảnh kinh tế số.

Thuật ngữ “tài chính vi mô” được hiểu theo cách phổ biến hiện nay, đó là hình thức cung cấp dịch vụ tài chính, bao gồm các khoản tín dụng vi mô, tiết kiệm, bảo hiểm tới người nghèo, các hộ gia đình có thu nhập thấp, doanh nghiệp nhỏ có nhu cầu về sản phẩm tài chính nhưng khó tiếp cận các tổ chức tài chính chính thức như ngân hàng, định chế tài chính; bên cạnh đó, dịch vụ phi tài chính, như: hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nhân lực, hỗ trợ xúc tiến đầu tư, hỗ trợ tiếp cận thị trường… cũng được triển khai để giúp những cá nhân, hộ gia đình nghèo, doanh nghiệp nhỏ có điều kiện tham gia vào các hoạt động sản xuất hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh và phát triển. Chủ thể của các hoạt động tài chính vi mô là các tổ chức tài chính vi mô, được hình thành, hoạt động với mục tiêu trợ giúp những cá nhân, hộ gia đình khó khăn, doanh nghiệp nhỏ có điều kiện, cơ hội tiếp cận các hỗ trợ tài chính, hỗ trợ phi tài chính (hỗ trợ đào tạo, việc làm, thị trường…); hàm ý sâu sắc về mục tiêu xóa đói giảm nghèo, tăng chất lượng cuộc sống của người dân.

Trên thực tế, đối tượng hỗ trợ của tài chính vi mô bao gồm cả cá nhân, hộ gia đình nghèo, doanh nghiệp nhỏ có điều kiện khó khăn về vốn. Trong nghiên cứu này, tác giả đề cập đến đối tượng hỗ trợ của tài chính vi mô giới hạn ở doanh nghiệp nhỏ, đó là những chủ thể sản xuất, kinh doanh có điều kiện khó khăn về vốn, khó tiếp cận các tổ chức tài chính chính thức là các ngân hàng cần được tiếp cận nguồn tài chính vi mô. Một số nghiên cứu gần đây bên cạnh việc khẳng định về hình thức hỗ trợ tài chính, phi tài chính hướng đến khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ khó khăn về nguồn vốn; họ còn khẳng định vai trò của tài chính vi mô đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ. Tài chính vi mô không chỉ giúp doanh nghiệp nhỏ chủ động vốn mà còn giúp doanh nghiệp chủ động nguồn lực, việc làm, thu nhập và ổn định phát triển. ILO (2020)7 khẳng định, vai trò hỗ trợ tài chính và vai trò hỗ trợ phi tài chính, đó là việc giúp doanh nghiệp nhỏ nắm bắt thông tin thị trường, chủ động liên kết, quản lý, hợp tác phát triển.

Với sự hỗ trợ của tài chính vi mô, việc quản trị doanh nghiệp nhỏ được thuận lợi, chủ động hơn. Các doanh nghiệp nhỏ sử dụng các hỗ trợ tài chính để đầu tư thiết bị, phương tiện, đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh để tăng năng suất và khả năng cạnh tranh, ổn định phát triển. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ sử dụng các hỗ trợ phi tài chính để nâng cao năng lực quản trị sản xuất, kinh doanh; nâng cao chất lượng lao động, gia tăng tính liên kết, hợp tác để phát triển bền vững. Qua đó, có thể nhận thấy ý nghĩa, sự ảnh hưởng của tài chính vi mô (hỗ trợ tài chính, phi tài chính) đối với quản trị doanh nghiệp nhỏ, được diễn giải dưới đây:

Một là, hỗ trợ tài chính giúp các doanh nghiệp nhỏ khắc phục thiếu hụt về vốn, thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn và tạo đà phát triển trong dài hạn.

ADB (2019)8 phân tích dịch vụ tài chính vi mô bao gồm các khoản vay nhỏ, bảo hiểm, tiết kiệm, chuyển tiền… với yêu cầu thấp về tài sản thế chấp, tính linh hoạt cao và dễ dàng tiếp cận (vay vốn phù hợp với quy mô hoạt động của doanh nghiệp; thủ tục vay vốn đơn giản, không yêu cầu cao về thế chấp tài sản…). Và, theo Gonzalez, A. et al. (2014)9, với tính linh hoạt cao và dễ dàng tiếp cận, doanh nghiệp nhỏ có điều kiện thuận lợi, bình đẳng khi tiếp cận vay vốn từ tổ chức tài chính vi mô. Đây là yếu tố thuận lợi khi doanh nghiệp nhỏ có nguyện vọng tiếp cận vốn; là công cụ chính sách trực tiếp có ảnh hưởng đến quản trị doanh nghiệp nhỏ, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ. Tác giả kế thừa, phát triển kết quả nghiên cứu của Gonzalez, A. et al. (2014)10 để xây dựng thang đo “Hỗ trợ tài chính” hàm ý các nội dung: doanh nghiệp nhỏ thuận lợi và bình đẳng tiếp cận vay vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh; doanh nghiệp nhỏ thuận lợi và linh hoạt tiếp cận vay vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phù hợp với quy mô hoạt động của doanh nghiệp; doanh nghiệp nhỏ thuận lợi tiếp cận vay vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh bằng thủ tục đơn giản.

Hai là, hỗ trợ phi tài chính giúp doanh nghiệp nhỏ nâng cao năng lực quản trị sản xuất, kinh doanh; nâng cao chất lượng lao động, gia tăng tính liên kết, hợp tác để phát triển bền vững.

Nghiên cứu của Gonzalez, A. et al. (2014) và ADB (2019) nhấn mạnh ý nghĩa của dịch vụ phi tài chính thông qua kênh hỗ trợ đào tạo kỹ năng quản trị, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ khi doanh nghiệp nhỏ vay vốn là điểm tựa quan trọng cho doanh nghiệp nhỏ phát triển. Chính sách hỗ trợ kết nối thị trường giúp doanh nghiệp nhỏ mở rộng quy mô sản xuất và phát triển bền vững. Và như vậy, việc hỗ trợ phi tài chính bằng hình thức hỗ trợ đào tạo, dịch vụ việc làm, hỗ trợ liên kết thị trường, xúc tiến đầu tư… trở thành công cụ chính sách quan trọng giúp doanh nghiệp nhỏ có điều kiện củng cố nguồn lực để thực hiện mục tiêu phát triển dài hạn. Tác giả kế thừa, phát triển kết quả nghiên cứu của Gonzalez, A. et al. (2014), ADB (2019)để xây dựng thang đo “Hỗ trợ phi tài chính” khi doanh nghiệp nhỏ tham gia chính sách tài chính vi mô – vay vốn, hàm ý các nội dung: doanh nghiệp nhỏ được hỗ trợ phát triển năng lực quản trị, điều hành khi tham gia chính sách vay vốn; doanh nghiệp nhỏ được hỗ trợ phát triển kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất, kinh doanh khi tham gia chính sách vay vốn; doanh nghiệp nhỏ được hỗ trợ liên kết phát triển thị trường, lao động, xúc tiến đầu tư tham gia chính sách vay vốn.

Doanh nghiệp nhỏ tham gia chính sách tài chính vi mô, họ có nhiều cơ hội được tiếp cận các hỗ trợ tài chính, phi tài chính kịp thời, phù hợp với đặc điểm và quy mô lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Đây là yếu tố có ý nghĩa động lực thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ thực hiện mục tiêu phát triển trong cả ngắn hạn và dài hạn; giúp doanh nghiệp nhỏ chủ động hơn trong quản trị, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững, tạo ra nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động địa phương.

Về khung chính sách và pháp luật về tài chính vi mô tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật nhằm phát triển tài chính vi mô như một công cụ hỗ trợ người thu nhập thấp và doanh nghiệp nhỏ. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 hiện coi tổ chức tài chính vi mô là một loại hình tổ chức tín dụng chính thức, có khung quản lý riêng. Gần đây, Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cũng nhấn mạnh vai trò của tài chính vi mô trong nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho mọi người dân. Chiến lược này xác định tài chính vi mô là công cụ quan trọng để thúc đẩy tài chính toàn diện và giảm nghèo bền vững.

Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các quy định chi tiết về điều kiện cấp phép và hoạt động cho các tổ chức tài chính vi mô. Nghị định số 162/2024/NĐ-CP ngày 20/12/2024 của Chính phủ quy định điều kiện cấp giấy phép đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và điều kiện đối với chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập. Những khung pháp lý này tạo điều kiện cho tài chính vi mô phát triển nhưng đồng thời cũng giới hạn mô hình tài chính vi mô chủ yếu ở dạng phi lợi nhuận, hướng xã hội. Nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam cần cải cách khung pháp lý theo hướng linh hoạt, thương mại hơn để các tổ chức vi mô huy động vốn và mở rộng quy mô hiệu quả.

Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò quản lý nhà nước, cấp phép và giám sát các tổ chức tài chính vi mô; đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành thúc đẩy tài chính vi mô gắn với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Bộ Tài chính cũng tham gia hỗ trợ tài chính vi mô qua việc xây dựng chính sách thuế, ngân sách (ví dụ cấp vốn điều lệ cho Ngân hàng Chính sách Xã hội, trợ cấp lãi suất cho một số chương trình cho vay ưu đãi) và gần đây dự thảo tiêu chí xếp hạng tổ chức tài chính vi mô để quản lý hiệu quả hơn.

Việt Nam đến nay có các bài học thành công, có nhiều chương trình, mô hình tài chính vi mô do các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội và tổ chức phi chính phủ triển khai (Bảng 1).

Bảng 1. Các chương trình, tổ chức tài chính vi mô

Chương trình/Tổ chứcCơ quan chủ trìMục tiêu và Đối tượng thụ hưởngQuy mô/Hoạt động chính
Ngân hàng Chính sách xã hội (VBSP)Chính phủ (HĐQT gồm NHNN, Bộ Tài chính, đoàn thể)Cho vay ưu đãi xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, hỗ trợ hộ nghèo, cận nghèo, doanh nghiệp siêu nhỏ thiếu vốn.Dư nợ ~304.000 tỷ (6/2023) với >6,6 triệu khách hàng trên cả nước thitruongtaichinhtiente.vn; ~20 chương trình tín dụng (hộ nghèo, sinh viên, nhà ở, nước sạch…).
Quỹ tín dụng nhân dânHợp tác xã địa phương (giám sát bởi NHNN)Huy động vốn và cho vay nhỏ lẻ tại cộng đồng nông thôn; phục vụ nông dân, hộ kinh doanh nhỏ địa bàn.1.178 quỹ trên 58 tỉnh, dư nợ ~138.700 tỷ đồng (2024) tapchinganhang.gov.vn; ~1,8 triệu thành viên; cho vay nông nghiệp, tiêu dùng nhỏ, lãi suất ưu đãi.
Tổ chức vi mô tình thương (TYM)Hội LHPN Việt NamHỗ trợ phụ nữ nghèo vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh nhỏ; nâng cao vị thế kinh tế cho phụ nữ.21 chi nhánh/13 tỉnh; ~200.000 khách hàng thường xuyên, dư nợ ~2.736 tỷ (2023) cho vay nhóm, kết hợp tiết kiệm, đào tạo.
Tổ chức tài chính vi mô CEPLiên đoàn Lao động (TP. Hồ Chí Minh)Cung cấp tín dụng nhỏ cho công nhân, lao động thu nhập thấp ở đô thị; phòng chống “tín dụng đen”.36 chi nhánh/9 tỉnh; dư nợ ~5.422 tỷ (2023) cep.org.vn; lãi suất ~0,5%/tháng; giai đoạn 2023-28 cho 1,41 triệu lượt CN vay ~50.000 tỷ nld.com.vn.
Tổ chức tài chính vi mô  M7NGO (Enfants du Monde, Fondation M7)Cho vay hộ nghèo, phụ nữ khó khăn ở một số tỉnh phía Bắc theo mô hình nhóm tự quản.Trụ sở tại Hà Nội, hoạt động ở ≥6 tỉnh; vốn điều lệ ~155 tỷ sbv.gov.vn; vài chục nghìn khách hàng; nhận hỗ trợ quốc tế, đang mở rộng.
Tổ chức tài chính vi mô Thanh HóaHội LHPN tỉnh Thanh HóaCho phụ nữ nghèo vay phát triển kinh tế hộ tại địa phương (mô hình quỹ quay vòng cấp tỉnh).Hoạt động trong tỉnh Thanh Hóa; vốn điều lệ ~15,5 tỷ sbv.gov.vn; vài nghìn khách hàng; dư nợ hàng chục tỷ, tập trung nông thôn.
Chương trình tổ chức tài chính vi mô đoàn thể, NGOHội Phụ nữ, Thanh niên, Nông dân… và NGO (được NHNN chấp thuận)Tín dụng quy mô nhỏ cho hội viên nghèo, thanh niên khởi nghiệp, nông dân vùng khó… thí điểm mô hình mới (tiết kiệm, bảo hiểm vi mô).Hàng chục dự án địa phương (vốn vài tỷ đến vài chục tỷ mỗi dự án); đối tượng vài trăm đến vài nghìn người/dự án; hỗ trợ kỹ thuật bởi ILO, WV, CARE…; nhiều dự án tích hợp đào tạo, nâng cao năng lực.
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ báo cáo Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Nhà nước, Vụ Hợp tác xã và các tổ chức quốc tế (ILO, ADB, WB).

Như vậy, bức tranh tài chính vi mô Việt Nam hiện nay đã và đang được định hình bởi nhiều chương trình, chính sách thiết thực. Mục tiêu chung của những chương trình này là mở rộng tiếp cận tài chính cho người yếu thế và doanh nghiệp nhỏ, thông qua các cơ chế linh hoạt và phù hợp (cho vay không thế chấp, lãi suất ưu đãi, kèm hỗ trợ phi tài chính). Quy mô hoạt động tài chính vi mô đã phủ rộng khắp: hàng chục nghìn tỷ đồng vốn đang được luân chuyển tới hàng triệu khách hàng nhỏ lẻ, góp phần giảm nghèo, tạo việc làm và thúc đẩy doanh nghiệp vi mô phát triển. Chính phủ Việt Nam đóng vai trò định hướng và hỗ trợ quan trọng, thể hiện qua khung pháp lý thuận lợi và sự đầu tư cho Ngân hàng Chính sách xã hội, quỹ tín dụng nhân dân. Đồng thời, sự tham gia của các tổ chức quốc tế (ILO, ADB, World Bank…) đã nâng cao năng lực và tính bền vững cho khu vực tài chính vi mô, đưa ra các hàm ý chính sách giá trị.

3. Phương pháp và kết quả nghiên cứu

Trong nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng kết hợp phương pháp định tính và định lượng. Nghiên cứu định tính được thực hiện qua thu thập, phân tích dữ liệu thứ cấp nhằm xây dựng khung lý thuyết với mô hình 3 thang đo, 9 biến quan sát đã đề cập. Nghiên cứu định lượng được thực hiện qua thu thập, phân tích dữ liệu sơ cấp bằng hình thức khảo sát nhằm kiểm định kiểm định mô hình lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu.

Trong nghiên cứu định lượng, theo Hair, J.F. et al. (2009)11, áp dụng trong nghiên cứu này, cỡ mẫu tối thiểu cần thực hiện là 45. Tác giả tiến hành khảo sát chính thức với cỡ mẫu N = 278 nhà quản lý của 120 doanh nghiệp nhỏ trên địa bàn 3 tỉnh, thành phố, gồm: Hà Nội, Thanh Hoá, TP. Hồ Chí Minh. Tác giả phỏng vấn để nắm bắt thông tin và phát phiếu khảo sát trên cơ sở sự đồng ý trả lời của người trả lời, tỷ lệ hồi đáp 100%.

Từ dữ liệu khảo sát thu thập được qua khảo sát, kết quả kiểm định cho thấy, cả 3 thang đo, 9 biến quan sát trong mô hình lý thuyết đều đạt độ tin cậy để có thể thực hiện phân tích tiếp theo. Dữ liệu thống kê cho thấy, các quan sát của thang đo “Hỗ trợ tài chính”, “Hỗ trợ phi tài chính”, “Quản trị doanh nghiệp nhỏ” cho kết quả các nhà quản lý doanh nghiệp nhỏ đánh giá khẳng định vai trò, ý nghĩa của công cụ tài chính vi mô đối với quản trị phát triển doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam. Các doanh nghiệp nhỏ thuận lợi và bình đẳng khi tiếp cận vay vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy mô hoạt động của doanh nghiệp; được hỗ trợ phát triển năng lực quản trị, điều hành, hỗ trợ phát triển kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ liên kết phát triển thị trường, lao động, xúc tiến đầu tư khi tham gia chính sách vay vốn. Đây là yếu tố giúp doanh nghiệp nhỏ khắc phục những thiếu hụt tài chính trong ngắn hạn, tạo điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh để thực hiện mục tiêu dài hạn.

Kết quả nghiên cứu, khảo sát trên góp phần phản ánh thực tế quản trị chính sách tài chính vi mô thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam; tương đồng với một số kết quả nghiên cứu gần đây, bổ sung và khẳng định thêm kết quả nghiên cứu của Gonzalez, A. et al. (2014)12, (Hoang & Creedy, 2020)13, VMWG (2022)14 cho rằng, tài chính vi mô giúp doanh nghiệp nắm bắt thông tin thị trường, chủ động liên kết, quản lý, hợp tác phát triển, giúp doanh nghiệp chủ động nguồn lực, việc làm, thu nhập và ổn định phát triển.

Ở khía cạnh cụ thể, các biến quan sát của thang đo “Hỗ trợ phi tài chính” cho thấy, việc hỗ trợ phi tài chính thể hiện vai trò ở mức độ thấp hơn. Có thể nhận thấy thực tế rằng, khi tham gia vào nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ thường có nhu cầu trực tiếp về tài chính, cho nên việc hỗ trợ vay vốn được ưu tiên nhằm đáp ứng nguyện, mục tiêu ngắn hạn của doanh nghiệp nhỏ để đầu tư sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp nhỏ đòi hỏi nhiều nguồn lực, bao gồm cả tài chính và phi tài chính. Cho nên, cần thực hiện song hành công cụ chính sách tài chính và phi tài chính để giúp doanh nghiệp nhỏ phát triển bền vững, đóng góp tích cực cho nền sản xuất và phát triển kinh tế địa phương, quốc gia.

Trên cơ sở độ tin cậy của các thang đo, biến quan sát được kiểm định, căn cứ theo Hair, J.F. et al. (2009)15, tác giả tiến hành phân tích nhân tố khám phá với phép xoay Varimax nhằm đánh giá sơ bộ tính đơn hướng, giá trị hội tụ, giá trị phân biệt của các thang đo để có thêm cơ sở đưa ra kết luận nghiên cứu về tính phù hợp của mô hình lý thuyết ban đầu.

Dữ liệu khẳng định sự thích hợp của tập dữ liệu với mô hình lý thuyết, khẳng định mô hình lý thuyết nghiên cứu được xây dựng ban đầu là phù hợp, có tính khả thi khi triển khai nghiên cứu thực chứng. Kết quả phân tích hồi quy khẳng định sự phù hợp của mô hình nghiên cứu lý thuyết với tập dữ liệu khảo sát, khẳng định mối quan hệ thuận chiều giữa 2 biến độc lập “Hỗ trợ tài chính”, “Hỗ trợ phi tài chính” và 01 biến phụ thuộc “Quản trị doanh nghiệp nhỏ”; các giả thuyết đã đưa ra được chấp nhận.

4. Kết luận và giải pháp

Kết quả nghiên cứu thực chứng cho thấy, tài chính vi mô có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến quản trị doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam thông qua hai cấu phần chính: (1) hỗ trợ tài chính và (2) hỗ trợ phi tài chính. Trong đó, hỗ trợ tài chính có mức độ ảnh hưởng mạnh hơn, phản ánh đúng thực tế doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn ngắn hạn để duy trì sản xuất, mở rộng quy mô và xử lý các biến động thị trường. Điều này phù hợp với kết luận của ADB (2022), cho rằng khả năng tiếp cận vốn vẫn là rào cản lớn nhất đối với doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp nữ làm chủ.

Tuy nhiên, hỗ trợ phi tài chính – mặc dù có hệ số tác động thấp hơn – lại đóng vai trò mang tính chiến lược trong nâng cao năng lực quản trị, gia tăng chất lượng lao động, tiếp cận thị trường và ứng dụng công nghệ. Những kết quả này tương đồng với phân tích của Hoang & Creedy (2020)16, Putzeys (2002)17 và Bui Thanh (2021)18, nhấn mạnh rằng, tác động dài hạn của tài chính vi mô chỉ được bảo đảm khi doanh nghiệp được hỗ trợ đào tạo, tư vấn, thông tin thị trường và liên kết kinh tế.

Như vậy, có thể khẳng định, tài chính vi mô ở Việt Nam không chỉ là công cụ “lấp đầy khoảng trống vốn” của doanh nghiệp nhỏ, mà còn là một công cụ chính sách quan trọng, giúp củng cố nền tảng quản trị, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển bền vững. Mô hình nghiên cứu của bài báo và kết quả thực nghiệm đã củng cố luận điểm rằng hai cấu phần của tài chính vi mô cần được triển khai song hành, đồng bộ và dưới sự hỗ trợ của khung pháp lý phù hợp.

Từ kết quả thực nghiệm và đối chiếu, nghiên cứu đề xuất các nhóm giải pháp chính sách sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý về tài chính vi mô theo hướng chuẩn hóa và dễ tiếp cận.

Rà soát, sửa đổi các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động tài chính vi mô nhằm tăng tính thống nhất và giảm sự chồng chéo giữa các cơ quan quản lý; nâng cấp cơ chế cấp phép, giám sát và báo cáo đối với tổ chức tài chính vi mô theo hướng phân loại rủi ro, phù hợp với quy mô hoạt động; tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong điều phối các chương trình tài chính vi mô và bảo đảm doanh nghiệp nhỏ tiếp cận công bằng, hiệu quả.

Cách tiếp cận này phù hợp với khuyến nghị của ADB (2022) về yêu cầu cải thiện môi trường pháp lý nhằm mở rộng dịch vụ tài chính cho khu vực doanh nghiệp nhỏ.

Thứ hai, tăng cường hỗ trợ phi tài chính theo hướng hệ thống và dài hạn.

Hỗ trợ phi tài chính cần được xem là trụ cột thứ hai của chính sách tài chính vi mô, cụ thể:

Phát triển các chương trình đào tạo về quản trị, kỹ năng số, quản lý dòng tiền, quản trị rủi ro và chuyển đổi mô hình kinh doanh; mở rộng các chương trình tư vấn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đổi mới sáng tạo; thiết lập các nền tảng hỗ trợ kết nối thị trường, xúc tiến thương mại, tham gia chuỗi giá trị.

Các bằng chứng của Putzeys (2002)19 và Bui Thanh (2021)20 đều cho thấy, tác động bền vững của tài chính vi mô chỉ đạt được khi doanh nghiệp được hỗ trợ phát triển năng lực.

Thứ ba, tăng cường phối hợp giữa chính quyền địa phương – ngân hàng thương mại – tổ chức tài chính vi mô.

Chính quyền địa phương cần đóng vai trò hạt nhân trong việc cung cấp dữ liệu doanh nghiệp, hỗ trợ truyền thông và xây dựng mạng lưới hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ.

Các ngân hàng thương mại cần tham gia vào các chương trình chuyển tiếp tín dụng, giúp doanh nghiệp nhỏ dần tiếp cận các sản phẩm tài chính chính thức hơn khi quy mô tăng lên. Tổ chức tài chính vi mô đảm nhiệm triển khai trực tiếp, theo dõi sát doanh nghiệp và tích hợp hỗ trợ tài chính – phi tài chính.

Mô hình phối hợp đa tác nhân này phù hợp với đề xuất của Hoang and Creedy (2020)21 về sự cần thiết của hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ.

Thứ tư, phát triển các chương trình tài chính vi mô chuyên biệt theo nhóm đối tượng.

Doanh nghiệp nhỏ rất đa dạng, nên cần các chương trình chuyên biệt, như: chương trình dành cho doanh nghiệp nữ làm chủ (theo khuyến nghị của ADB 2022); chương trình hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp nhỏ; chương trình tài chính vi mô gắn với nông nghiệp thông minh, kinh tế số hoặc du lịch cộng đồng.

Việc phân nhóm đối tượng sẽ giúp tăng hiệu quả chính sách và tối ưu hóa nguồn lực triển khai.

Thứ năm, xây dựng cơ chế đánh giá tác động tài chính vi mô dựa trên dữ liệu và chuẩn quốc tế.

Phát triển bộ chỉ số quản trị doanh nghiệp nhỏ gắn với tiếp cận tài chính, năng lực vận hành, công nghệ và thị trường.

Kết nối dữ liệu giữa Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tài chính vi mô và hệ thống thông tin doanh nghiệp. Áp dụng các khung theo dõi – đánh giá theo chuẩn IFC, ADB, ILO nhằm đo lường tác động dài hạn. Điều này sẽ giúp chính sách có căn cứ khoa học và tăng tính minh bạch.

Trong bối cảnh mới, tài chính vi mô tại Việt Nam cần tiếp tục được quản trị tốt và mở rộng theo hướng hiệu quả hơn. Nhà nước đang cân nhắc những cải cách để các tổ chức vi mô có thể huy động thêm nguồn lực, ứng dụng công nghệ và cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng hơn cho doanh nghiệp nhỏ. Vai trò của tài chính vi mô đối với quản trị doanh nghiệp nhỏ không chỉ dừng ở vốn vay ngắn hạn mà còn ở việc kết nối thông tin, đào tạo kỹ năng, tư vấn thị trường… Do đó, các chính sách tương lai cần khuyến khích sự kết hợp hài hòa giữa hỗ trợ tài chính và phi tài chính. Như kết quả nghiên cứu cho thấy, hỗ trợ tài chính vi mô giúp doanh nghiệp nhỏ giải quyết khó khăn vốn trong ngắn hạn, nhưng hỗ trợ phi tài chính mới tạo nền tảng cho phát triển dài hạn. Vì vậy, quản lý nhà nước về tài chính vi mô cần chú trọng cả hai khía cạnh: vừa bảo đảm nguồn vốn vi mô đến được đúng đối tượng với chi phí hợp lý, vừa thúc đẩy các chương trình tư vấn, đào tạo kèm theo, khẳng định tài chính vi mô muốn phát huy hiệu quả phải gắn liền với khung chính sách hỗ trợ và sự quản lý chặt chẽ, linh hoạt của nhà nước.

Chú thích:
1. VIN – Vietnam Investment Newspaper (2025). Accounting for nearly 98% of total enterprises, where are small and medium enterprises in the economy. https://baodautu.vn/chiem-gan-98-tong-so-doanh-nghiep-doanh-nghiep-nho-va-vua-dang-o-dau-trong-nen-kinh-te-d249574.html, February 27, 2025.
2, 14. VMWG-Vietnam Microfinance Working Group. (2022). Microfinance and small business development in Vietnam: Opportunities and challenges. Vietnam Microfinance Working Group.
3, 13, 16, 21. Hoang, T. T. H., & Creedy, J. (2020). Development of Microfinance Organisations in Vietnam. VNU Journal of Economics and Business, 36(5E), 60–69.
4. ADB (Asian Development Bank). (2022). Financial Access of Women-Owned Small and Medium-sized Enterprises in Viet Nam. Manila: ADB.
5, 17, 19. Putzeys, R. (2002). Micro Finance in Vietnam: Three Case Studies. Findev Gateway.
6, 18, 20. Bui Thanh, L. (2021). The Impact of Microfinance on Women Empowerment in Vietnam. Journal of Social and Economic Studies.
7. ILO-International Labour Organization (2020). Microfinance and small enterprises in developing countries: The case of Vietnam. ILO Publication.
8. ADB-Asian Development Bank (2019). Microfinance in Southeast Asia: Policies and impacts. (ADB Report No. 501).
10, 12. Gonzalez, A.; Meyer, R. L. (2014). Microfinance institutions and the small business sector: A review of evidence from Asia and Africa. The World Bank Group.
11, 15. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., & Anderson, R. E. (2013). Multivariate Data Analysis (7th ed.). Pearson.