Vai trò của người dân trong tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ

TS. Lương Tình
ThS. Lê Hữu Phước
Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên
PGS.TS. Nguyễn Hoàng Hiển
Học viện Khoa học xã hội 

(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm gần đây, các nỗ lực tìm ra giải pháp nhằm quản lý hiệu quả chất thải rắn sinh hoạt của các cấp chính quyền trở nên cấp bách, đặc biệt ở các địa phương ven biển. Bằng phương pháp phân tích thống kê dựa trên dữ liệu được khảo sát tại khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ, kết quả nghiên cứu chỉ ra sự tham gia của người dân vào công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt không chỉ là một giải pháp tình thế mà đã trở thành một yêu cầu cấp thiết. Từ những nghiên cứu này, bài viết đề xuất một số hàm ý nhằm nâng cao vai trò của các bên liên quan trong tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ.

Từ khóa: Người dân; quản lý; chất thải rắn sinh hoạt; ven biển; Nam Trung Bộ.

1. Đặt vấn đề

Quản lý chất thải rắn sinh hoạt là một quá trình toàn diện bao gồm việc phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Hiện nay, dưới áp lực từ sự gia tăng dân số, phát triển đô thị, công nghiệp, du lịch, y tế làm trầm trọng thêm ô nhiễm môi trường và sức khỏe con người. Vì vậy, việc quản lý chất thải là vấn đề quan trọng của chính quyền các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. 

Vùng Nam Trung Bộ hiện nay bao gồm các tỉnh, thành phố ven biển từ thành phố Đà Nẵng đến tỉnh Lâm Đồng, là không gian cư trú, phát triển kinh tế và sinh hoạt cộng đồng của hàng triệu người dân. Đây là khu vực có vị trí địa chính trị – kinh tế đặc biệt quan trọng, hội tụ nhiều tiềm năng về phát triển kinh tế biển, du lịch, đô thị hóa ven biển, song cũng đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về môi trường, đặc biệt là tình trạng chất thải rắn sinh hoạt gia tăng nhanh chóng, trong khi năng lực thu gom, phân loại và xử lý còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh đó, chính quyền các địa phương trong vùng đã có nhiều nỗ lực để giải quyết vấn đề này. Bên cạnh đó, cần huy động sự tham gia của người dân vào công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt. 

Người dân không chỉ là đối tượng của công tác quản lý mà phải trở thành chủ thể tích cực và không thể thiếu trong toàn bộ chu trình quản lý rác thải. Bài viết phân tích vai trò của người dân trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế vấn đề ô nhiễm, xây dựng một môi trường bền vững cho các khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ.

2. Thực trạng người dân tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu là phân tích vai trò của người dân trong tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ. Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát 200 hộ gia đình, phỏng vấn sâu người dân, cán bộ quản lý ở các xã thuộc tỉnh Quảng Nam  (nay là thành phố Đà Nẵng) và tỉnh Bình Định (nay là tỉnh Gia Lai). Dữ liệu được thu thập theo phương pháp ngẫu nhiên, trong khoảng thời gian từ ngày 17/6 – 26/6/2025. Kết quả nghiên cứu thông qua phương pháp này được trình bày trong các biểu đồ dưới dạng tỷ lệ phần trăm (%) nhằm thể hiện mức độ tham gia của người dân trong quản lý chất thải rắn.

2.1. Vai trò tuyên truyền tại gia đình và xã hội trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt

Trong quá trình chuyển đổi từ thói quen xả rác bừa bãi sang quản lý có tổ chức, vai trò tuyên truyền của người dân tại gia đình và trong cộng đồng có sức mạnh lan tỏa mạnh mẽ và mang tính quyết định đến sự thay đổi nhận thức và hành vi chung. Vượt ra khỏi vai trò là đối tượng tiếp nhận thông tin một chiều từ chính quyền, người dân đã trở thành những chủ thể truyền thông tích cực và hiệu quả nhất, tạo ra một mạng lưới tuyên truyền, giám sát tự nhiên ngay tại cơ sở. Sức mạnh của mạng lưới này đến từ chính sự gần gũi, thấu hiểu và ảnh hưởng qua lại giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng hàng xóm. 

Biểu đồ 1. Mức độ tuyên truyền tại gia đình và xã hội 

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của nhóm tác giả, năm 2025.

Hành động “thường xuyên trò chuyện, nhắc nhở về phân loại rác, tiết kiệm tài nguyên” có tỷ lệ cao nhất, đạt khoảng 87%. Điều này cho thấy, ý thức tuyên truyền và vận động trong phạm vi gia đình là rất mạnh mẽ. Người dân không chỉ nhắc nhở mà còn cung cấp thông tin chi tiết, mang tính thực hành cao. Mặc dù việc lan tỏa ra cộng đồng và phối hợp với chính quyền vẫn được thực hiện tốt, nhưng tỷ lệ có phần thấp hơn so với các hoạt động nội bộ gia đình đạt 85%. 

Nhìn chung, có khoảng 87% người được hỏi cho biết họ “có tham gia tuyên truyền các hoạt động quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại gia đình và địa phương”. Tỷ lệ này là mức trung bình của các hoạt động cụ thể đã nêu trên, phản ánh sự tham gia tích cực và có ý thức của người dân vào công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường.

Vai trò tuyên truyền của người dân được thể hiện một cách có tổ chức và rõ nét nhất thông qua sự tham gia của họ vào các tổ chức chính trị – xã hội. Các cuộc họp dân định kỳ hoặc họp của các chi hội luôn là diễn đàn quan trọng để lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường, thường xuyên nhắc nhở, phổ biến các quy định mới. Đặc biệt, với tỷ lệ tham gia các cuộc họp rất cao (có nơi lên đến 90%), phụ nữ trở thành kênh truyền thông chủ lực và hiệu quả nhất tại cơ sở. Sau khi tham dự các buổi tập huấn hoặc nghe phổ biến từ cán bộ cấp trên, chính những hội viên này lại trở về tuyên truyền trong gia đình, tạo ra sức lan tỏa thông tin rất hiệu quả với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thể hiện rất rõ trong việc quản lý rác thải sinh hoạt tại các khu dân cư.

2.2. Vai trò trong tiêu dùng, phân loại và xử lý ban đầu chất thải

Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của sự thay đổi này là sự hưởng ứng nhiệt liệt của người dân đối với các mô hình khuyến khích giảm thiểu rác thải nhựa, điển hình là mô hình “Đổi rác thải nhựa lấy quà” do các tổ chức, như: Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh niên khởi xướng. Thông qua mô hình này, thói quen vứt bỏ rác thải nhựa bừa bãi đã dần được thay thế bằng hành vi tích trữ có chủ đích. Thay vì thải bỏ ngay, người dân chủ động thu gom, làm sạch túi ni lông, chai nhựa để đổi lấy các vật phẩm thiết yếu. 

Đối với chất thải hữu cơ, đây là nhóm chiếm tỷ lệ lớn trong chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam nói chung, ở Nam Trung Bộ nói riêng. Người dân đã áp dụng các phương pháp xử lý ban đầu rất hiệu quả thay vì thải bỏ. Thức ăn thừa được tận dụng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Ở những nơi có quy mô lớn hơn, rác thải có thể được người dân xử ý bằng cách ủ với các chế phẩm sinh học để làm phân bón hữu cơ, những loại khác có thể sử dụng máy móc để xay, nghiền, chế biến thành thức ăn cho gia cầm, gia súc. 

Nhìn chung, tỷ lệ tham gia của người dân vào các hoạt động này rất cao, với hầu hết các chỉ số đều trên 87%. Hành động “Thực hành đầy đủ việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn” có tỷ lệ cao nhất, đạt khoảng 85%. Tương tự, việc “duy trì thói quen thường xuyên thực hiện phân loại rác tại nguồn một cách đều đặn” cũng đạt mức rất cao là 86%. Điều này cho thấy, việc phân loại rác không chỉ là hành động nhất thời mà đã trở thành một thói quen được duy trì thường xuyên trong các hộ gia đình. Người dân cũng cho thấy sự cởi mở với các giải pháp mới, với 88% cho biết họ “kịp thời thay đổi thói quen mua sắm khi có các sản phẩm/giải pháp bền vững mới xuất hiện trên thị trường”.

Biểu đồ 2. Vai trò tiêu dùng, phân loại, xử lý ban đầu chất thải

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của nhóm tác giả, năm 2025.

Người dân ở các địa điểm khảo sát cũng thể hiện tốt sự phối hợp trong gia đình và cộng đồng trong hoạt động tiêu dùng, phân loại và xử lý ban đầu chất thải rắn. Sự phối hợp trong gia đình để thực hiện các hành vi tiêu dùng bền vững đạt tỷ lệ rất cao, khoảng 87%. Việc phối hợp với các hộ xung quanh, tổ dân phố và các nhóm tình nguyện viên có tỷ lệ thấp hơn một chút, khoảng 86% cho thấy, sự kết nối cộng đồng trong lĩnh vực này có thể cần được tăng cường thêm trong thời gian tới. Hành động “kịp thời bỏ rác đã phân loại ra đúng thời gian quy định để xe thu gom kịp thời lấy đi” đạt tỷ lệ khoảng 90%, thể hiện ý thức chấp hành tốt các quy định về thời gian và địa điểm đổ rác.

Từ bảng số liệu trên cho thấy, có khoảng 87% người được hỏi khẳng định họ “có tham gia tiêu dùng, phân loại rác thải rắn sinh hoạt”. Con số này phản ánh một bức tranh tổng thể rất tích cực về ý thức và trách nhiệm của người dân trong các giai đoạn đầu của quá trình quản lý chất thải. Người dân đóng vai trò chủ động và tích cực trong việc thực hành tiêu dùng bền vững và đặc biệt là phân loại rác tại nguồn. Các hành động này không chỉ được thực hiện tốt ở cấp độ cá nhân và gia đình mà còn có sự phối hợp nhất định với cộng đồng và các đơn vị thu gom, thu mua phế liệu.

2.3. Đóng góp chi phí, lệ phí thu gom rác thải

Việc đóng góp chi phí, lệ phí rác thải thường xuyên theo quy định tại địa phương có tỷ lệ cao nhất, đạt khoảng 89%. Điều này cho thấy, việc đóng phí đã trở thành một thói quen đều đặn, được người dân duy trì tốt. Tương tự, việc đóng góp chi phí, lệ phí rác thải đầy đủ theo quy định cũng đạt mức rất cao, khoảng 88%. Con số này cho thấy, người dân không chỉ đóng thường xuyên mà còn đóng đúng và đủ số tiền theo quy định. Ngược lại, sự phối hợp với cán bộ thu phí rác thải với người dân có tỷ lệ thấp nhất trong các hoạt động được khảo sát, ở mức khoảng 86%. Con số khoảng 87% là mức trung bình của các hành vi cụ thể và phản ánh một bức tranh rất tích cực về trách nhiệm tài chính của người dân đối với công tác vệ sinh môi trường tại nơi sinh sống. 

Biểu đồ 3. Vai trò đóng góp chi phí, lệ phí rác thải

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của nhóm tác giả, năm 2025.

2.4. Dọn dẹp tại cộng đồng và xây dựng cảnh quan môi trường

Vượt ra ngoài phạm vi trách nhiệm của từng hộ gia đình, người dân còn đóng một vai trò chủ động và có tính gắn kết cao trong việc tham gia vào các hoạt động vệ sinh tập thể, trực tiếp cải thiện không gian sống chung và xây dựng cảnh quan môi trường. Sự tham gia này không chỉ giải quyết các vấn đề rác thải tồn đọng tại các khu vực công cộng mà còn củng cố tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ và trách nhiệm tập thể của mỗi cá nhân đối với cộng đồng. Các phong trào như “Chủ nhật xanh” hay “Thứ bảy tình nguyện” đã trở thành hoạt động thường xuyên ở nhiều địa phương. 

Biểu đồ 4. Dọn dẹp tại cộng đồng nhân các ngày chủ nhật, mô hình nhà đẹp vườn xanh tại địa phương

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của nhóm tác giả, năm 2025.

Hành động thường xuyên chăm sóc, cắt tỉa cây cối, dọn dẹp khuôn viên nhà và vườn có tỷ lệ cao nhất, đạt khoảng 90%. Điều này cho thấy, ý thức giữ gìn vệ sinh và làm đẹp không gian sống của chính gia đình mình là rất cao, phù hợp với mô hình “nhà đẹp vườn xanh”. Theo kết quả khảo sát, có đến 85% cho biết, họ thường xuyên dọn dẹp rác thải tại cộng đồng vào mỗi chủ nhật hằng tuần, hằng tháng, định kỳ theo sự vận động của các cán bộ trong thôn, xóm. 

2.5. Vai trò phản biện và giám sát

Một trong những cơ chế giám sát hiệu quả nhất được hình thành chính là sự giám sát lẫn nhau ngay trong cộng đồng dân cư. Khi ý thức bảo vệ môi trường chung đã trở thành một giá trị được đa số người dân công nhận, những hành vi đi ngược lại giá trị đó sẽ bị cộng đồng lên tiếng. Thay vì tâm lý e ngại, sợ mất lòng như trước đây, người dân giờ đây sẵn sàng nhắc nhở trực tiếp những hành vi xả rác không đúng quy định.

Biểu đồ 5. Phản biện, giám sát của người dân trong quản lý rác thải

Nguồn: Tổng hợp kết quả khảo sát của nhóm tác giả, năm 2025.

Người dân cũng chủ động trong việc nêu lên các vấn đề chung của cộng đồng. Họ phản ánh hầu hết, đầy đủ các ý kiến hoặc khi thấy các vấn đề môi trường cần giải quyết xuất hiện nơi tôi sống (điểm nóng rác thải tại địa phương) đạt khoảng 88%. Việc thường xuyên tham gia phát biểu, đối thoại về các vấn đề quản lý rác thải khi thôn xóm họp dân cũng ở mức tương tự, khoảng 88%. Trong khi đó, hoạt động kịp thời phản ánh khi thấy có các vấn đề phát sinh trong quá trình phân loại (ví dụ: thiếu thùng rác phân loại, nhầm lẫn) khi họp dân có tỷ lệ chỉ khoảng 86%. Từ những con số này cho thấy, người dân có xu hướng ít phản ánh về các vấn đề kỹ thuật, chi tiết trong quá trình thực hiện hơn là các vấn đề môi trường chung hoặc các điểm nóng về rác thải. Trong khi đó, việc người dân sẵn sàng phối hợp với các cơ quan ban ngành, chính quyền địa phương trong việc giám sát, kiểm tra các hoạt động quản lý chất thải rắn đạt 89%, điều đó cho thấy có sự kết nối chặt chẽ giữa chính quyền và cộng đồng dân cư. Đây là bước đi cần thiết nhằm thực hiện chủ trương “cộng đồng hóa trách nhiệm” trong công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững vùng ven biển.

Trung bình có khoảng 87% người được hỏi khẳng định họ tham gia giám sát các hoạt động môi trường tại địa phương dù ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ này mặc dù vẫn thể hiện sự tham gia của đa số người dân nhưng cho thấy, vai trò giám sát và phản biện chưa mạnh mẽ bằng các vai trò mang tính hành động trực tiếp như phân loại rác hay dọn dẹp vệ sinh. 

3. Một số giải pháp phát huy vai trò của người dân tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt

Thứ nhất, phát huy vai trò tuyên truyền tại gia đình và xã hội. Để thông điệp bảo vệ môi trường thấm sâu vào đời sống hằng ngày, cần vượt ra khỏi các phương pháp truyền thống như các cuộc họp định kỳ. Giải pháp là phải đa dạng hóa và hiện đại hóa các kênh truyền thông, làm cho thông tin trở nên trực quan, sinh động và dễ tiếp cận hơn với mọi đối tượng. Chính quyền cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền trực quan, như: treo băng rôn, khẩu hiệu tại các khu vực công cộng, nơi đông người qua lại. Bên cạnh đó, việc tổ chức các hội thi, tiểu phẩm về môi trường sẽ thu hút sự tham gia đông đảo của người dân, giúp họ tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên và hứng khởi hơn. Trong thời đại công nghệ số, việc ứng dụng các nền tảng mạng xã hội, như: Zalo, Facebook để tạo các nhóm cộng đồng cho thôn, xã là một giải pháp hiệu quả để thông báo, nhắc nhở và chia sẻ kinh nghiệm, giúp thông tin được lan tỏa nhanh chóng và rộng khắp. 

Thứ hai, phát huy vai trò trong tiêu dùng, phân loại, xử lý ban đầu chất thải. Thay đổi hành vi tiêu dùng và giảm thiểu chất thải nhựa thông qua các mô hình khuyến khích kinh tế – xã hội, đặc biệt là việc sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một lần là nguyên nhân gốc rễ làm gia tăng lượng rác thải nhựa khó phân hủy. Do đó, các giải pháp cần tập trung vào việc tạo ra các động lực trực tiếp để người dân thay đổi thói quen này. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các mô hình “Đổi rác thải nhựa lấy quà” đã rất thành công trong việc thu hút sự tham gia của cộng đồng, kể cả khi giá trị vật chất của quà tặng không lớn. Việc hướng dẫn người dân tự ủ phân hữu cơ tại nhà từ rác nhà bếp và phế phẩm nông nghiệp là một giải pháp rất tiềm năng, giúp giảm một lượng lớn rác thải cần thu gom; đồng thời, tạo ra nguồn phân bón sạch cho cây trồng.

Thứ ba, phát huy vai trò đóng góp chi phí, lệ phí thu gom rác thải. Việc người dân tự giác đóng góp chi phí, lệ phí thu gom rác thải là một chỉ số quan trọng, phản ánh sự thành công trong việc chuyển đổi nhận thức từ thói quen xả thải tự do sang hành vi có trách nhiệm với môi trường chung. Để phát huy hơn nữa vai trò này, cần xây dựng mức phí hợp lý, công bằng và có lộ trình điều chỉnh phù hợp, xây dựng một cơ chế định giá dịch vụ khoa học, công khai, dựa trên nguyên tắc “tính đúng, tính đủ” các chi phí vận hành và nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Việc xây dựng biểu phí cần được tham khảo ý kiến của người dân thông qua các cuộc họp cộng đồng để tạo sự đồng thuận. 

Thứ tư, phát huy vai trò dọn dẹp tại cộng đồng nhân các ngày chủ nhật, mô hình nhà đẹp vườn xanh tại địa phương. Hoạt động “Chủ nhật xanh” là một sáng kiến quan trọng và việc phát huy vai trò của người dân cần tập trung vào sự tự giác, trách nhiệm cá nhân và cơ chế giám sát xã hội. Chính vì vậy, cần vận động người dân hình thành thói quen thường xuyên dọn dẹp vệ sinh khu vực trước nhà của mình. Dù hoạt động cộng đồng “Chủ nhật xanh” được tổ chức theo định kỳ hoặc khi đường sá bị bẩn, việc duy trì vệ sinh hàng ngày ở phạm vi gia đình sẽ làm giảm đáng kể lượng rác thải công cộng.

Thứ năm, phát huy vai trò phản biện, giám sát. Để đưa vai trò của người dân từ bị động sang chủ thể giám sát tích cực, cần có những giải pháp mang tính hệ thống nhằm tạo ra cơ chế giám sát minh bạch, hiệu quả và trao quyền thực chất cho cộng đồng. Việc này không chỉ giúp giải quyết các vấn đề môi trường tại cơ sở một cách nhanh chóng mà còn thúc đẩy trách nhiệm giải trình của chính quyền và các đơn vị cung cấp dịch vụ, bảo đảm hệ thống quản lý chất thải rắn vận hành vì lợi ích của người dân.

Xây dựng các kênh thông tin chính thức, đa dạng và dễ sử dụng để họ gửi phản ánh, kiến nghị, do vậy cần công khai hóa và đa dạng hóa các kênh tiếp nhận thông tin. Chính quyền cấp xã cần công khai số điện thoại đường dây nóng của lãnh đạo xã, trưởng thôn và cán bộ phụ trách môi trường để người dân có thể báo cáo ngay lập tức các vấn đề phát sinh. 

4. Kết luận

Vai trò của người dân trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ là vô cùng to lớn và có tính quyết định đến sự thành công của công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ. Mọi thành tựu đạt được đều có nền tảng từ sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của họ. Mặc dù còn tồn tại hạn chế, nhưng những kết quả tích cực đã minh chứng rằng, khi có sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền, sự kiên trì vận động của các đoàn thể và đặc biệt là khi vai trò chủ thể của người dân được tôn trọng và phát huy, mọi thách thức về môi trường đều có thể được giải quyết một cách bền vững.

Tài liệu tham khảo:

1. Bài viết là một phần kết quả của nhiệm vụ cấp Bộ năm 2025 – 2026: “Vai trò của người dân trong tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại khu dân cư ven biển vùng Nam Trung Bộ giai đoạn 2020 – 2025” do TS. Lương Tình làm chủ nhiệm, Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ và Tây Nguyên chủ trì.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2023). Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2023: Môi trường nông thôn – Thực trạng và giải pháp.

3. Trần Hiếu Nhuệ và cộng sự (2022). Vai trò của cộng đồng doanh nghiệp và hộ gia đình tham gia quản lý chất thải rắn sinh hoạt và bảo vệ môi trường. Tạp chí Môi trường, số 01/2022.

4. Ủy ban nhân dân huyện Núi Thành (2023). Báo cáo số 459/BC-UBND ngày 05/12/2023 về công tác bảo vệ môi trường huyện năm 2023.

5. World Bank (2018). Đánh giá công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt và chất thải công nghiệp độc hại, các phương án và hành động nhằm thực hiện chiến lược quốc gia.