TS. Cao Minh Công
Trường Đại học Kiểm sát
ThS. Đỗ Thị Hằng Nga
Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại Hà Giang
(Quanlynhanuoc.vn) – Các môn lý luận chính trị có vai trò vô cùng quan trọng trong các chương trình đào tạo bậc đại học, trang bị cho người học thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan để tiếp cận và luận giải các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, công nghệ, tôn giáo, đạo đức,… trong kỷ nguyên mới, hình thành phẩm chất công dân mới có trách nhiệm. Theo đó, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực người học các môn Lý luận chính trị không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo đại học mà còn là một yêu cầu chính trị cấp bách hiện nay. Đổi mới kiểm tra, đánh giá ở các môn Lý luận chính trị đòi hỏi sự đồng bộ, quyết tâm từ các cấp quản lý, sự nỗ lực của giảng viên và sự chủ động của người học.
Từ khóa: Kiểm tra, đánh giá bậc đại học; phát triển năng lực người học; lý luận chính trị; kiểm tra, đánh giá năng lực người học.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội, giáo dục đại học Việt Nam cũng đứng trước yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ để đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng thích ứng, dẫn dắt và kiến tạo. Đặc biệt, với các môn lý luận chính trị – nền tảng tư tưởng, đạo đức, lối sống, bản lĩnh chính trị cho thế hệ trẻ ngày càng trở nên cấp thiết. Trong kỷ nguyên mới, để Việt Nam vững bước trên con đường phát triển và khẳng định vị thế quốc gia, đòi hỏi những công dân không chỉ am hiểu lý luận mà còn phải có khả năng vận dụng, tư duy phản biện và hành động thực tiễn phải “Tinh – Gọn – Mạnh – Hiệu năng – Hiệu lực – Hiệu quả”1. Do đó, trong việc dạy và học ở bậc đại học, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển “năng lực người học” là một yêu cầu tất yếu, có ý nghĩa chiến lược để các môn lý luận chính trị thực sự phát huy vai trò trong công cuộc “vươn mình” của dân tộc.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực người học các môn lý luận chính trị không chỉ là một nhiệm vụ khoa học mà còn là một yêu cầu chính trị cấp bách. Điều này đòi hỏi sự đồng bộ, quyết tâm từ các cấp quản lý, sự nỗ lực của giảng viên và sự chủ động của người học. Khi kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục được đổi mới, ngày càng thực chất, hiệu quả, sẽ là thước đo thành tích và là đòn bẩy quan trọng, góp phần hoàn thành đầy đủ cam kết chuẩn đầu ra trong các chương trình đào tạo; nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đào tạo ra những thế hệ người học có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy khoa học, khả năng thích ứng, dẫn dắt và cống hiến cho sự phát triển của đất nước. Bài viết tập trung phân tích tính cấp thiết của việc đổi mới, những yêu cầu cơ bản và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá, góp phần phát triển năng lực toàn diện cho người học ở các môn lý luận chính trị trong kỷ nguyên mới.
2. Các yếu tố ảnh hưởng năng lực người học môn lý luận chính trị trong kỷ nguyên mới
Một là, hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng.
Việt Nam đang tích cực tham gia các định chế, hiệp định đa phương, song phương, trở thành đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, trong “bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng cùng sự phát triển của kỹ thuật số hiện nay”5. Điều này đồng nghĩa với việc công dân Việt Nam phải có kiến thức và hiểu biết sâu rộng về các xu thế toàn cầu, năng lực tư duy độc lập, phân tích đa chiều các vấn đề quốc tế, đồng thời kiên định giữ vững lập trường, bản sắc dân tộc. Theo đó, người học Lý luận chính trị không chỉ cần nắm vững lý luận về chính trị, quan hệ quốc tế của Đảng mà còn phải có khả năng phân tích các sự kiện, vấn đề quốc tế dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trên hết, trước hết.
Hai là, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ và cách mạng công nghiệp 4.0.
Kỷ nguyên số – là quá trình thay đổi cách sống, cách làm việc trên môi trường thực-số và theo đó phương thức sản xuất cũng phải thay đổi cho phù hợp với môi trường thực – số. Theo đó, với sự bùng nổ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), internet vạn vật (IoT)… đang làm thay đổi căn bản mọi mặt đời sống xã hội. Thông tin trở nên phong phú, nhiều vẻ nhưng cũng tiềm ẩn nhiều thông tin sai lệch, độc hại. Điều này càng đòi hỏi người học phải có năng lực chọn lọc, phân tích, đánh giá thông tin, tư duy phản biện để không bị động trước các luồng tư tưởng phức tạp, xấu độc. Các môn Lý luận chính trị cần tiếp tục trang bị cho sinh viên không chỉ kiến thức nền tảng mà còn cả thế giới quan, phương pháp luận để tiếp cận và luận giải các vấn đề khoa học công nghệ, đạo đức, kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật… trong kỷ nguyên số, hình thành phẩm chất công dân số có trách nhiệm.
Ba là, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”8; mục tiêu cụ thể năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam đang quyết tâm thực hiện mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Để đạt được khát vọng đó, rất cần những công dân có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường, năng lực “phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”9 đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Đồng thời, đòi hỏi người học có khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp nảy sinh từ quá trình phát triển nhanh của đất nước từ sớm, từ xa: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”10. Trong bối cảnh này đòi hỏi các môn Lý luận chính trị cần phải góp phần đào tạo những người học có khả năng vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn phát triển đất nước, nhận diện và đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
3. Công cụ kiểm tra, đánh giá các môn lý luận chính trị thường được sử dụng
Kiểm tra, đánh giá các môn lý luận chính trị hiện nay không chỉ kiểm tra kiến thức đơn thuần mà yêu cầu người học phát triển những năng lực khác như diễn thuyết, tự khám phá tri thức… Việc sử dụng linh hoạt các công cụ kiểm tra hiệu quả sẽ giúp cho việc xác định người học đạt được gần với mục tiêu đào tạo. Các công cụ kiểm tra, đánh giá các môn lý luận chính trị thường được các cơ sở đào tạo sử dụng với trọng số: Đánh giá quá trình: 50% (Chuyên cần: 10%; Bài thi giữa kỳ: 15%; Bài làm việc nhóm:15%; tiểu luận: 10%); thi hết môn 50% (trắc nghiệm; vấn đáp; tự luận).
Bảng. Công cụ kiểm tra, đánh giá các môn lý luận chính trị
| Loại bài kiểm tra | Những mục tiêu có khả năng đánh giá được | Một số ưu điểm có thể có | Một số nhược điểm có thể có |
| Kiểm tra tự luận tại lớp – trọng số 15% | – Kỹ năng lập luận;- Khả năng ngôn ngữ, logic trình bày | Dễ ra đề | Chú trọng về khả năng viết |
| Kiểm tra tự luận được chuẩn bị ở nhà – trọng số 15% | – Năng lực thu nhập thông tin, tìm tòi, sáng tạo – Sự suy nghĩ, đánh giá | Người học có thể thể hiện năng lực cao hơn | Khó kiểm soát việc nhờ giúp sức/ người khác làm |
| Kiểm tra tại lớp được sử dụng học liệu – trọng số 15% | Phát huy năng lực tra cứu của người học; Sự chuẩn bị có bản sắc cá nhân | Các lập luận mang tính cá nhân, sáng tạo, mang tính tổng hợp khái quát | – Chưa có phương pháp chấm điểm chính xác, tin cậy – Phụ thuộc nhiều vào tốc độ hoạt động của cá nhân |
| Kiểm tra vấn đáp/ – trọng số 50% (Thường thi hết môn) | Đánh giá năng lực tiếp thu; Kỹ năng lập luận bằng lời | Gắn với tình huống trong giảng dạy | Áp lực với người học trong suốt quá trình học/ thi |
| Kiểm tra trắc nghiệm/ – trọng số 50% (Thường thi hết môn) | Đánh giá mức độ ghi nhớ tốt; người học bớt áp lực. | Dễ thực hiện trong chấm bài; người học thực hiện thi/ kiểm tra trong thời gian ngắn | Không khuyến khích được tư duy biện chứng; dễ phạm phải siêu hình; thiếu rèn luyện kỹ năng lập luận và viết; học tủ |
| Kiểm tra qua thảo luận nhóm – trọng số 15% | Sự tham gia của người học trong nhóm, kết nối chia sẻ, rèn được kỹ năng thuyết trình, lập luận của cá nhân thay mặt nhóm | Thực hiện cần nhiều thời gian; kết hợp những đánh giá khác | – Tính chủ quan cao – Hiệu ứng “cá nhân, định kiến” – Giảng viên cần có kỹ năng quan sát, tổ chức lớp học linh hoạt |
| Tiểu luận môn học – trọng số 10% | – Năng lực tìm hiểu thông tin, lập luận – Năng lực hệ thống hóa, vận dụng kiến thức – Kỹ năng trình bày – Sự sáng tạo | Cho điểm một cách tổng hợp | – Việc cho điểm hoàn toàn chủ quan, thiếu ổn định – Cần nhiều thời gian |
Thứ nhất, các chương trình đào tạo bậc đại học của các cơ sở đào tạo đại học ở Việt Nam những năm qua đã thiết lập được hệ thống kế hoạch và lựa chọn các loại hình đánh giá người học phù hợp trong quá trình học tập theo từng chương trình đào tạo (có các môn Lý luận chính trị/ 5 học phần):
(1) Các cơ sở đào tạo đại học tổ chức xây dựng kế hoạch và ban hành các quy trình, bao gồm: quy trình lập kế hoạch tổ chức thi bao gồm 3 bước (ra đề, coi thi, tổ chức chấm thi và thông báo kết quả, cách tính điểm bộ phận và điểm học phần). Quy trình xét tốt nghiệp, quy trình đánh giá kết quả học tập, trong đó được phân ra làm 2 loại hình đánh giá: đánh giá kết quả học tập theo học phần và đánh giá kết quả học tập theo học kỳ. Các khoa/bộ môn xây dựng các loại hình đánh giá người học đa dạng tùy theo tính chất của môn học/học phần.
(2) Các cơ sở đào tạo đại học đã quy định: đánh giá và tính điểm học phần cho các học phần lý thuyết và học phần thực hành có tổ chức thi kết thúc học phần; đánh giá quá trình của giảng viên đối với sinh viên gồm hình thức kiểm tra, thời gian kiểm tra, thời lượng các bài kiểm tra; quy định về tổ chức thi kết thúc học phần, tổ chức thi và chấm thi. Ngoài ra, còn quy định điều kiện dự thi, thi kết thúc học phần, hình thức thi, khiếu nại và sửa điểm; quy định phòng chức năng chịu trách nhiệm xây dựng hệ thống các quy trình, lập kế hoạch và lựa chọn loại hình đánh giá điểm rèn luyện đối với người học; có hướng dẫn đánh giá kết quả rèn luyện người học.
(3) Các cơ sở đào tạo đại học đã quy định: việc lựa chọn loại hình và phương pháp đánh giá người học dựa trên chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo và chuẩn đầu ra của từng học phần theo quy định về việc xây dựng, quản lý ngân hàng đề thi/đáp án kết thúc học phần/môn học/module đều có ở các cơ sở đào tạo đại học.
(4) Các cơ sở đào tạo đại học chỉ đạo các khoa/bộ môn xây dựng đề cương môn học/học phần,trong đó có thiết lập phương pháp và nội dung đánh giá người học. Đề cương chi tiết các học phần của các chương trình đào tạo đều ghi cụ thể các loại hình kiểm tra đánh giá và thi kết thúc học phần. Tất cả các đề cương học phần đều được công khai trên trang thông tin điện tử của các cơ sở đào tạo đại học để người học tham khảo.
Từ đầu năm học, các cơ sở đào tạo đại học thường ban hành Kế hoạch đào tạo, trong đó ghi rõ tuần nào trong học kỳ sẽ là tuần thi kết thúc các học phần; các cơ sở đào tạo đại học ban hành lịch thi cụ thể cho từng học phần. Tất cả các kế hoạch đều được dán công khai tại phòng Đào tạo và Quản lý sinh viên;đăng tải công khai trên trang thông tin điện tử để các đối tượng liên quan được biết. Trong suốt quá trình đào tạo, việc học tập trên lớp được đánh giá người học thông qua điểm chuyên cần, các bài kiểm tra giữa kỳ, các bài tập nhóm, bài thực hành, thực tập; bài thi cuối kỳ với nhiều hình thức khác nhau, như: thi tự luận, trắc nghiệm, trắc nghiệm kết hợp với tự luận, vấn đáp. Hình thức đánh giá mỗi môn học được thể hiện rõ trong đề cương môn học/học phần và được giảng viên phổ biến tới người học ngay khi bắt đầu môn học.
(5) Các loại hình, tiêu chí, nội dung đánh giá đối với từng môn học/học phần trong chương trình dạy học được xây dựng đã phản ánh xác thực về mức độ phù hợp của các loại hình kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học. Cụ thể: mức độ từ hài lòng trở lên các năm đều tương đối cao; phần lớn cơ sở đào tạo đại học đã quy định về xây dựng, quản lý và xây dựng ngân hàng đề thi,… ở đó đưa ra quy định về số lượng đề thi tối thiểu cho mỗi tín chỉ của từng học phần…
Thứ hai, các hoạt động đánh giá người học được các cơ sở đào tạo đại học thiết kế phù hợp với việc đạt được chuẩn đầu ra:
(1) Các cơ sở đào tạo đại học đã xây dựng và ban hành các chương trình đào tạo, gắn với chuẩn đầu ra của từng chương trình. Chương trình đào tạo của Nhà trường được công bố trên Website của trường. Căn cứ chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra của môn học/học phần; đề cương các môn học/học phần được xây dựng để bảo đảm đạt chuẩn đầu ra về cả kiến thức, kỹ năng và tính tự chủ, ý thức trách nhiệm của người học. Kết thúc mỗi học kỳ, các khoa tổ chức họp để đánh giá, rút kinh nghiệm, điều chỉnh hoạt động giảng dạy cho phù hợp. Các môn học đều có phần đánh giá chuyên cần, đánh giá quá trình và thi kết thúc học phần. Hình thức đánh giá mỗi môn học được thể hiện rõ trong đề cương môn học/học phần và được giảng viên phổ biến tới người học ngay khi bắt đầu môn học.
(2) Các cơ sở đào tạo đại học thực hiện nhiều phương pháp kiểm tra, đánh giá phù hợp để đạt được chuẩn đầu ra đã được công bố. Việc tổ chức thi kết thúc học phần gồm nhiều phương pháp: tự luận, trắc nghiệm, bán trắc nghiệm, vấn đáp, thực hành, phù hợp với từng môn học, giúp đánh giá khách quan quá trình học tập của người học. Người học phải thể hiện được năng lực tư duy, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề với yêu cầu nhất định.
Việc thiết kế nội dung kiểm tra, đánh giá từng học phần bám sát ma trận chuẩn đầu ra đã được công bố về kiến thức, kỹ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm. Kết thúc mỗi kỳ học, người học được tham gia đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên, trong đó có nội dung liên quan đến lấy ý kiến người học về hình thức đánh giá môn học. Về ý kiến phản hồi từ người học về hoạt động giảng dạy của giảng viên theo từng năm học. Theo đó, kết quả khảo sát từng kỳ của người học đối với việc kết quả kiểm tra được giảng viên công bố kịp thời và việc sử dụng các hình thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập khác nhau của giảng viên đáp ứng được chuẩn đầu ra môn học thường có tỷ lệ đồng ý cao trở lên.
Kết thúc năm học các khoa/bộ môn có họp phân tích, nghiên cứu các loại hình/hình thức đánh giá đặc thù đối với mỗi loại môn học/học phần… Các phương pháp đánh giá và kết quả đánh giá người học được rà soát để bảo đảm độ chính xác, tin cậy, công bằng và hướng tới đạt được chuẩn đầu ra, căn cứ vào các văn bản quy định về thi, kiểm tra, đánh giá người học, các cơ sở đào tạo đại học thường được tiến hành thực hiện rà soát các phương pháp đánh giá người học. Nội dung rà soát tập trung vào các phương pháp kiểm tra đánh giá và tổ hợp phương pháp kiểm tra đánh giá đã được áp dụng cho từng học phần, tuân thủ các quy định, quy chế về đào tạo và đánh giá người học. Các báo cáo đã xác định những tồn tại và đưa ra những kiến nghị để giải quyết. Căn cứ kết quả rà soát một số khoa/bộ môn đã có những đề xuất thay đổi hình thức thi trên cơ sở rà soát bổ sung cho phù hợp.
Hằng năm, phòng Đào tạo và Quản lý sinh viên của các cơ sở đào tạo đại học thường phối hợp với các khoa/bộ môn chuyên môn thống kê kết quả thi kết thúc học phần của tất cả các chương trình đào tạo, phân tích ảnh hưởng kết quả đánh giá và đề xuất về việc cần điều chỉnh phương pháp đánh giá kết thúc học phần. Căn cứ vào các kết quả khảo sát, các khoa, bộ môn tiến hành rà soát đề cương học phần; đồng thời, trên cơ sở rà soát các cơ sở đào tạo đại học thường đã ra công văn thông báo hiện trạng cho các khoa/bộ môn và đề nghị các khoa/bộ môn rà soát và có đề xuất điều chỉnh phương pháp kiểm tra đánh giá phù hợp.
Thứ ba, các loại hình và các phương pháp đánh giá người học được cải tiến để bảo đảm độ chính xác, tin cậy và hướng tới đạt được chuẩn đầu ra:
(1) Các cơ sở đào tạo đại học đã ban hành kế hoạch rà soát, cập nhật chương trình đào tạo trình độ đại học để điều chỉnh, bổ sung và ban hành chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo các ngành trình độ đại học phù hợp; về cải tiến chất lượng sau đánh giá ngoài Chương trình đào tạo trình độ đại học, trong đó có rà soát lại các loại hình, phương pháp kiểm tra đánh giá nhằm kiểm soát các hoạt động không phù hợp của các phương pháp kiểm tra đánh giá; kịp thời điều chỉnh để đạt được độ tin cậy của các quy trình, như: Quy trình tổ chức thi học kỳ, Quy trình xét tốt nghiệp, Quy trình đánh giá kết quả học tập.
(2) Các cơ sở đào tạo đại học yêu cầu/thông báo các đơn vị các khoa/bộ môn tổ chức các buổi họp đánh giá hình thức thi, đã bổ sung, áp dụng các loại hình, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học như: thi vấn đáp, tiểu luận, trắc nghiệm, bán trắc nghiệm,… đối với các học phần và các kỳ thi. Kết quả sau rà soát đạt được là một số học phần đã thay đổi phương pháp đánh giá.
(3) Các cơ sở đào tạo đại học đã xây dựng quy trình đánh giá độ tin cậy và độ chính xác của phương pháp kiểm tra đánh giá người học theo thông báo của phòng chức năng. Quy trình thường gồm 12 bước. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo đại học còn phân tích kết quả khảo sát các khoa/bộ môn để có điều chỉnh các hình thức, phương pháp thi, kiểm tra đánh giá bảo đảm độ tin cậy và độ giá trị của các đề thi…
Kiểm tra, đánh giá truyền thống đối với các môn Lý luận chính trị thường nặng về việc tái hiện kiến thức, diễn giải, mô tả, ghi nhớ máy móc các khái niệm, nguyên lý, phạm trù,… Điều này, một mặt, gây áp lực cho người học, mặt khác, không phát huy tính sáng tạo đối với người học, thậm chí đưa tới tâm lý người học chỉ mong qua môn, làm mất đi sự hứng thú đối với các môn lý luận chính trị.
4. Yêu cầu đổi mới kiểm tra, đánh giá các môn lý luận chính trị theo hướng phát triển năng lực
Để kiểm tra, đánh giá các môn Lý luận chính trị thực sự góp phần phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học trong kỷ nguyên mới, cần tập trung vào các yêu cầu sau:
Một là, chuyển đổi trọng tâm từ “kiểm tra kiến thức” sang “đánh giá năng lực và phẩm chất”. Mục tiêu của kiểm tra, đánh giá phải là đo lường được những năng lực cốt lõi mà người học cần có sau khi học các môn Lý luận chính trị:
(1) Năng lực tư duy biện chứng, phân tích chính trị: khả năng phân tích sâu sắc các sự kiện, hiện tượng chính trị, xã hội bằng lăng kính duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; vạch ra bản chất, quy luật vận động, phát triển vận dụng vào luận giải các mặt của đời sống xã hội và định vị bản thân.
(2) Năng lực vận dụng lý luận vào giải quyết vấn đề thực tiễn: áp dụng các nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng để lý giải các vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là các vấn đề mới nảy sinh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
(3) Năng lực phản biện xã hội và bảo vệ nền tảng tư tưởng: có khả năng phân tích, phản bác, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ, lan tỏa những giá trị chân chính của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng – nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam hiện nay.
(4) Năng lực tự học, tự nghiên cứu và cập nhật thông tin: chủ động tìm kiếm, chọn lọc, xử lý thông tin từ nhiều nguồn, đặc biệt trong môi trường số, phương thức sản xuất số để làm sâu sắc kiến thức và giải quyết các vấn đề mới. Phương thức sản xuất số không chỉ là một xu hướng mà còn là một yêu cầu tất yếu trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Việc nắm bắt và ứng dụng phương thức sản xuất số sẽ giúp bản thân người học đạt được sự phát triển bền vững và thịnh vượng trong tình hình mới.
(5) Phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và tinh thần yêu nước: thể hiện qua thái độ học tập nghiêm túc, tinh thần trách nhiệm công dân, ý chí phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, góp phần hình thành, phát triển năng lực nguồn nhân lực mới, mang trong mình văn hóa đổi mới sáng tạo.
Hai là, đa dạng hóa hình thức và công cụ đánh giá phù hợp với năng lực cần phát triển. Để đo lường các năng lực đa chiều, cần xác định:
(1) Thiết kế bài tập tình huống (Case study): xây dựng các tình huống giả định hoặc có thật liên quan đến các vấn đề chính trị, xã hội phức tạp của Việt Nam và thế giới, yêu cầu sinh viên vận dụng lý luận để phân tích, đánh giá, đưa ra quan điểm và đề xuất giải pháp.
(2) Dự án học tập và nghiên cứu khoa học nhỏ: giao các đề tài nghiên cứu thực tế về các vấn đề thời sự, chính sách công, lịch sử địa phương… yêu cầu sinh viên làm việc nhóm, tìm kiếm tài liệu, phân tích, tổng hợp và trình bày kết quả dưới dạng báo cáo, bài luận khoa học, poster, hoặc sản phẩm đa phương tiện.
(3) Thuyết trình và tranh biện (Debate): tổ chức các buổi thuyết trình và tranh biện về các chủ đề lý luận hoặc các vấn đề xã hội gây tranh cãi, đòi hỏi sinh viên khả năng lập luận, phản biện, giao tiếp và làm việc nhóm.
(4) Đánh giá qua sản phẩm học tập: video phân tích, infographic tóm tắt nội dung, podcast bình luận các sự kiện chính trị – xã hội, bài phân tích chính sách.
(5) Thi vấn đáp mở: tạo điều kiện cho sinh viên thể hiện sự hiểu biết sâu sắc, khả năng lập luận và bảo vệ quan điểm cá nhân.
(6) Trắc nghiệm khách quan tư duy: xây dựng câu hỏi trắc nghiệm không chỉ kiểm tra ghi nhớ mà còn yêu cầu phân tích dữ liệu, suy luận, đánh giá thông tin để tìm ra đáp án đúng, “hướng đến việc áp dụng tối ưu phương pháp trắc nghiệm khách quan”12 là một sự lựa chọn phù hợp.
Ba là, tăng cường đánh giá quá trình và vai trò phản hồi của người học. Việc đánh giá quá trình phải được coi trọng và chiếm tỷ trọng hợp lý trong tổng điểm môn học. Điều này đòi hỏi:
(1) Đánh giá thường xuyên, liên tục: thông qua các bài kiểm tra ngắn, bài tập cá nhân/nhóm, mức độ tham gia thảo luận, thái độ học tập trên lớp.
(2) Phản hồi kịp thời và cụ thể: giảng viên cần cung cấp nhận xét chi tiết, mang tính định hướng về điểm mạnh, điểm yếu và gợi ý các giải pháp để sinh viên tự cải thiện và phát triển liên tục.
(3) Xây dựng Rubrics (bảng tiêu chí đánh giá) rõ ràng và minh bạch: công khai các tiêu chí đánh giá cho từng loại năng lực, hình thức kiểm tra ngay từ đầu khóa học để sinh viên nắm rõ kỳ vọng và định hướng việc học tập, rèn luyện.
(4) Khuyến khích tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng: giúp sinh viên phát triển kỹ năng tự nhận thức, tự điều chỉnh và rèn luyện tư duy phản biện khi đánh giá người khác.
Bốn là, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong kiểm tra, đánh giá. Trong đó, sử dụng hệ thống quản lý học tập (LMS), các nền tảng (như: Moodle, Google Classroom, Microsoft Teams… giúp giao bài, thu bài, chấm điểm, quản lý dữ liệu điểm số và cung cấp phản hồi tự động một cách hiệu quả). Phần mềm thi trực tuyến (giúp xây dựng ngân hàng câu hỏi đa dạng, tổ chức thi linh hoạt, giảm thiểu gian lận và chấm điểm nhanh chóng, khách quan). Công cụ hỗ trợ đánh giá (phần mềm kiểm tra đạo văn (ví dụ: Turnitin), các công cụ phân tích ngôn ngữ tự nhiên để hỗ trợ đánh giá bài làm tự luận). Tận dụng nguồn tài nguyên số (hướng dẫn sinh viên khai thác các nguồn thông tin chính thống, đa phương tiện trên không gian mạng để phục vụ việc học tập, nghiên cứu và giải quyết các bài tập thực tiễn).
5. Giải pháp đổi mới kiểm tra, đánh giá các môn lý luận chính trị
Để thực hiện thành công việc đổi mới, cần có sự phối hợp đồng bộ và quyết tâm cao từ các cấp độ:
Thứ nhất, từ Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan quản lý giáo dục.
Tiếp tục hoàn thiện và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn cụ thể về kiểm tra, đánh giá năng lực cho các môn Lý luận chính trị ở bậc đại học; tổ chức các chương trình tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu, có hệ thống về phương pháp, kỹ thuật thiết kế và thực hiện đánh giá năng lực cho đội ngũ giảng viên trên phạm vi toàn quốc; xây dựng và phổ biến kho dữ liệu chuẩn hóa về các tình huống, dự án, bài tập thực tiễn liên quan đến Lý luận chính trị để các trường tham khảo và áp dụng; đồng thời, tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học về đổi mới kiểm tra, đánh giá các môn Lý luận chính trị.
Thứ hai, từ các trường đại học.
Tập trung xây dựng chiến lược và lộ trình cụ thể về đổi mới kiểm tra, đánh giá, gắn kết chặt chẽ với chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo và mục tiêu phát triển chung của nhà trường. Tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại để hỗ trợ việc tổ chức kiểm tra, đánh giá đa dạng và ứng dụng số hóa. Bên cạnh đó, có chính sách khuyến khích, động viên giảng viên đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và nguồn lực; đồng thời, tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn định kỳ, chia sẻ kinh nghiệm nội bộ về các phương pháp kiểm tra, đánh giá hiệu quả.
Thứ ba, từ đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị.
Đội ngũ giảng viên cần phải chủ động, tự hoàn thiện kiến thức chuyên môn, kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu khoa học và thái độ thực hành nghề nghiệp. Các khoa chuyên môn, phòng chức năng phục vụ đào tạo ở các cơ sở đào tạo đại học cần tạo điều kiện để giảng viên giảng dạy lý luận chính trị phát huy tính chủ động, sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vì lợi ích chung. Cần coi kiểm tra, đánh giá là một phần không thể tách rời của quá trình dạy học, là công cụ để thúc đẩy sự phát triển năng lực của người học các môn lý luận chính trị.
Thứ tư, từ phía người học.
Cần nâng cao ý thức, thái độ học tập chủ động, tích cực, không ngừng tìm tòi, nghiên cứu; tích cực tham gia vào các hoạt động nhóm, thảo luận, thuyết trình, tranh biện để rèn luyện kỹ năng mềm và tư duy phản biện; chủ động khai thác các công cụ công nghệ thông tin và tài nguyên số để phục vụ việc học tập và nghiên cứu; đặc biệt có sự phản hồi tích cực để đóng góp vào việc hoàn thiện quá trình kiểm tra, đánh giá tại cơ sở đào tạo.
6. Kết luận
Trong bối cảnh mới hiện nay, đòi hỏi thế hệ trẻ phải có tri thức sâu rộng, bản lĩnh chính trị vững vàng và những năng lực cốt lõi để thích ứng, kiến tạo. Vì vậy, việc đổi mới kiểm tra, đánh giá các môn Lý luận chính trị bậc đại học theo hướng phát triển năng lực người học không chỉ là một yêu cầu cấp thiết mà còn là một nhiệm vụ chiến lược trong đào tạo bậc đại học hiện nay. Để thực hiện thành công việc đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá các môn Lý luận chính trị, dứt khoát các cơ sở giáo dục đại học phải luôn bám sát mục tiêu chương trình đào tạo cũng như yếu tố chuẩn đầu ra, trong đó bằng cách chuyển đổi tư duy, đa dạng hóa hình thức, tăng cường đánh giá quá trình với phản hồi mang tính xây dựng và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ, từ đó, xây dựng một hệ thống kiểm tra, đánh giá thực chất, hiệu quả hơn, phù hợp hơn. Điều này góp phần đào tạo ra những thế hệ người học không chỉ: vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm mà còn có khả năng vận dụng linh hoạt, tư duy sáng tạo, bản lĩnh kiên định, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên mới, thực hiện thành công khát vọng phát triển hùng cường của dân tộc Việt Nam.
Chú thích:
1. Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Tinh – Gọn – Mạnh – Hiệu năng – Hiệu lực – Hiệu quả”. https://baochinhphu.vn/bai-viet-cua-tong-bi-thu-to-lam-tinh-gon-manh-hieu-nang-hieu-luc-hieu-qua-102241105172459096.htm
2. Việt Nam tự tin, bản lĩnh bước vào kỷ nguyên thông minh. https://baochinhphu.vn/thu-tuong-viet-nam-tu-tin-ban-linh-buoc-vao-ky-nguyen-thong-minh-102241007182648627.htm
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
4. Bộ Chính trị (2024). Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
5. Giáo dục đại học: Cơ hội và thách thức trong chuyển đổi số. https://mst.gov.vn/giao-duc-dai-hoc-co-hoi-va-thach-thuc-trong-chuyen-doi-so-197143493.htm
6, 7. Phương thức sản xuất số. https://tiasang.com.vn/dien-dan/phuong-thuc-san-xuat-so.
8, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 111 – 112, 180.
9. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
11. Vũ Tuấn, Nguyễn Thị Mơ (2017). Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá các môn Lý luận chính trị trong trường đại học, cao đẳng hiện nay. Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, số136 (01/2017), tr.80.
12. Bùi Ngọc Quang (2017). Đánh giá chất lượng ngân hàng đề thi trắc nghiệm khách quan môn Nhân học đại cương bằng mô hình RASCH và phần mềm QUEST. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No.X3- 2017, tr. 42.



