Hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam – thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện

Vũ Hoàng
NCS. Học viện Khoa học xã hội

(Quanlynhanuoc.vn) – Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đã được chứng minh có nhiều ưu điểm so với thủ tục tố tụng thông thường. Bản chất Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ra đời là để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho lĩnh vực này phát triển hơn. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ ứng dụng vào đời sống, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã bộc lộ một số hạn chế, trong đó có thể bàn đến vấn đề hủy phán quyết trọng tài. Bài viết, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lĩnh vực này và đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại.

Từ khóa: Luật Trọng tài thương mại, giải quyết tranh chấp, hủy phán quyết trọng tài thương mại, tòa án, pháp luật.

1. Quy định pháp luật hiện hành về hủy phán quyết trọng tài

Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Phán quyết trọng tài là quyết định của hội đồng trọng tài giải quyết tòan bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài”. Phán quyết trọng tài bao gồm quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên của hội đồng trọng tài và phán quyết trọng tài của hội đồng trọng tài quy định tại Điều 61 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

Theo thông lệ quốc tế, hủy phán quyết trọng tài là một thủ tục pháp lý do tòa án thực hiện nhằm xem xét lại phán quyết trọng tài được ban hành có tuân thủ đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục xét xử của trọng tài theo luật định. Một trong các bên tranh chấp được quyền yêu cầu tòa án xem xét lại phán quyết trọng tài nếu có đủ căn cứ chứng minh rằng, hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp bị hủy theo quy định của pháp luật.

Ở Việt Nam, quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài được quy định tại Điều 69 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp có thể hủy phán quyết trọng tài thì có thể làm đơn gửi tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp. Theo Điều 70 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thương mại phải có các nội dung và tài liệu kèm theo đơn như: (a) Bản chính hoặc bản sao phán quyết trọng tài đã được chứng thực hợp lệ; (b) Bản chính hoặc bản sao thỏa thuận trọng tài đã được chứng thực hợp lệ.

Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng phân chia nghĩa vụ chứng minh về căn cứ hủy thành hai trường hợp: (1) Đối với các căn cứ tại điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 68, bên yêu cầu hủy có nghĩa vụ chủ động xác minh thu nhập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. (2) Đối với các căn cứ tại điểm đ khoản 2 Điều 68, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu nhập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài. Các tài liệu, chứng cứ phải gửi kèm theo đơn yêu cầu được quy định chi tiết tại Điều 70 Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

Phán quyết trọng tài sẽ bị hủy nếu buộc một trong các trường hợp sau: (1) Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu. (2) Thành phần hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. (3) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị hủy. (4) Chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài. (5) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Thủ tục hủy phán quyết trọng tài là thủ tục giải quyết việc dân sự thuộc thẩm quyền của tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 31 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, được thực hiện theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại Việt Nam, quy định cụ thể tại Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Theo đó thủ tục hủy phán quyết trọng tài được thực hiện bằng phiên họp xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của hội đồng xét đơn do tòa án có thẩm quyền chỉ định thành lập sau khi thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài mà không tổ chức phiên tòa xét xử lại nội dung vụ án.

Kết quả của việc xem xét đơn, hội đồng xét đơn có thể ra quyết định hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài hoặc đình chỉ việc xét đơn yêu cầu nếu bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài rút đơn hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp mà không được hội đồng chấp thuận. Ngoài ra, tòa án có thể tạm đình chỉ xem xét giải quyết đơn yêu cầu trong thời hạn nhất định không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài.

Quyết định của tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành. Nếu hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết trọng tài, các bên có thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện tại tòa án. Trường hợp này, khi tính thời hiệu khởi kiện, thời gian giải quyết tranh chấp tại trọng tài, thời gian tiến hành thủ tục hủy phán quyết trọng tài tại tòa án không tính vào thời hiệu khởi kiện. Nếu hội đồng xét đơn yêu cầu không hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài được thi hành.

2. Những vướng mắc, bất cập trong thực thi các quy định pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại

Mặc dù trọng tài là một phương thức tối ưu để các bên lựa chọn khi giải quyết tranh chấp nhưng việc thi hành các phán quyết trọng tài thương mại tại Việt Nam hiện nay còn nhiều vướng mắc, bất cập. Số lượng các phán quyết trọng tài bị tòa án Việt Nam tuyên hủy chiếm tỷ lệ cao so với quốc tế khiến cộng đồng doanh nghiệp hoang mang, làm giảm vị thế và ưu thế của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, gây hiệu ứng tiêu cực cho môi trường kinh doanh tại Việt Nam1.

2.1. Về áp dụng các căn cứ hủy phán quyết trọng tài thương mại

Khi áp dụng các căn cứ hủy phán quyết trọng tài thương mại theo Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cho thấy những vướng mắc, bất cập sau đây:

Thứ nhất, về căn cứ “không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Đây là thỏa thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 6 và Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và hướng dẫn tại Điều 2, 3 và 4 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP). Trong thực tế, khi nghiên cứu các trường hợp viện dẫn quy định về thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được theo Điều 6 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 còn có các cách hiểu khác nhau: không thể thực hiện được thoả thuận trọng tài và có thoả thuận trọng tài nhưng không xác định được tổ chức trọng tài cụ thể. Theo Nghị quyết số 01/2014/NQHĐTP, một trong các trường hợp thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được là “Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng tài cụ thể nhưng trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp”.

Thứ hai, về căn cứ “thành phần hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật Trọng tài thương mại” là trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng thỏa thuận của các bên hoặc Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng quy định Luật Trọng tài thương mại về nội dung này mà Tòa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu Hội đồng trọng tài không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại.

Qua ví dụ thực tiễn để hướng dẫn xét xử quy định tại điểm b khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP cần tiếp tục quy định rõ hơn căn cứ nếu Hội đồng trọng tài không thể khắc phục được theo yêu cầu của tòa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại.

Thứ ba, về căn cứ: “Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài” là trường hợp Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010; hoặc Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà không được các bên thỏa thuận yêu cầu Trọng tài giải quyết hoặc giải quyết vượt quá phạm vi của thỏa thuận đưa ra trọng tài giải quyết.

Với phương pháp “chọn – cho” (positive approach) là cam kết theo dạng “chỉ được làm những gì được phép làm”, Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài: (1) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. (2) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại. (3) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Mặc dù mở rộng thầm quyền của trọng tài thương mại trong đời sống luật tư là xu thể phổ biến trên thế giới, song với cách lập pháp như trên, pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam chưa sẵn sàng tiếp nhận xu thế này. Điều này có thể giải thích bằng nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chính là pháp luật về tố tụng dân sự chưa định hình được những vụ việc chi thuộc thẩm quyền của tòa án. Phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội, văn hóa, lịch sử và truyền thống lập pháp, các vụ việc thuộc thẩm quyền riêng của Tòa án được quy định khác nhau nhưng đều có mẫu số chung là các vụ việc: quyền nhân thân, quốc tịch, hộ tịch, hôn nhân gia đình; xác lập quyền sở hữu; tranh chấp liên quan đến bất động sản; thừa kế; quyền khai thác khoáng sản, dầu khí; phần dân sự trong các bản án hình sự…

Khoản 5 Điều 236 Luật Đất đai năm 2024 mở đường cho Trọng tài thương mại Việt Nam (không áp dụng đối với Trung tâm trọng tài nước ngoài) giải quyết các tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại, loại vụ việc vốn trước đây thuộc thẩm quyền riêng của Tòa án cho thấy, xu hướng mở rộng thẩm quyền của Trọng tài thương mại đã bắt đầu với nhiều mâu thuẫn nội tại nhưng chưa được thiết kế vững chắc và hậu thuẫn từ các quy định pháp luật về tố tụng dân sự về thẩm quyền riêng của Tòa án. Điều này góp phần giải thích tình trạng “xé rào” của các Hội đồng Trọng tài thương mại sử dụng triệt để căn cứ “mất quyền phản đối” quy định tại Điều 13 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và của Điều 6 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP để ban hành phán quyết không thuộc thẩm quyền.

Thứ tư, về căn cứ “chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài”.

Với trường hợp “Chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo”. Theo quy định tại Điều 478 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, các giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp, xác nhận nếu muốn được sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại tòa án phải làm thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự. Như vậy, nếu áp dụng quy định này vào quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ có thể dẫn tới việc kéo dài thời hạn nộp tài liệu, chứng cứ gây khó khăn cho các bên tranh chấp.

Thứ năm, về căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Theo điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về trọng tài thương mại nói riêng chưa minh định về: (1) Nguyên tắc xử sự cơ bản thực sự có ý nghĩa gì? (2) Các tiêu chí để xác định một nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam; (3) Nếu thỏa mãn các tiêu chí xác định, tối thiểu nó được ghi nhận ở nguồn luật nào?

Điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP đã liệt kê hai ví dụ có thể được coi là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết trong lĩnh vực thương mại quy định tại Điều 11 Luật Thương mại và Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2005 (được thay thế bằng khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015) và nguyên tắc “trọng tài viên phải độc lập, khách quan và vô tư” theo khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Như vậy, thực tiễn xét xử của Tòa án Việt Nam hiện đang coi các nguyên tắc sau đây là nguyên tắc cơ bản: (1) Nguyên tắc tự do, tự nguyện của các bên; (2) Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và không bị phân biệt đối xử; (3) Nguyên tắc trọng tài viên phải độc lập, khách quan và vô tư.

Từ phương diện luật học so sánh, dễ nhận thấy “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” gần giống với khái niệm “Public Policy” như được quy định trong Luật mẫu UNCITRAL2, pháp luật trọng tài thương mại ở một số quốc gia phát triển và Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài3, song có thể khẳng định, việc nhận thức, diễn giải và áp dụng rất khác nhau:

(1) Theo pháp luật trọng tài thương mại của một số quốc gia, như: Singapore, Hoa Kỳ hoặc Pháp, khái niệm “Public Policy” được diễn giải rất hẹp khi làm căn cứ cho hủy phán quyết trọng tài4. Theo đó, không phải mọi hành vi vi phạm điều khoản bắt buộc của quốc gia đều cấu thành hành vi vi phạm “Public Policy”; chỉ những điều khoản của luật là nền tảng cho trật tự pháp lý hoặc đạo đức cơ bản của một quốc gia mới là căn cứ cho một “Public Policy”.

(2) Theo điểm b khoản 2 Điều 34 Luật mẫu UNCITRAL, tòa án có thẩm quyền không bắt buộc phải hủy phán quyết ngay cả khi một trong những căn cứ này được áp dụng5, nhưng Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định là nghĩa vụ pháp lý của Tòa án Việt Nam phải hủy phán quyết nếu họ thấy phán quyết đó vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.

(3) Tòa án Việt Nam nhận thức, diễn giải và áp dụng “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” trong phạm vi rất rộng đến mức đôi khi khá tùy tiện trong đó bao gồm cả các nguyên tắc không cơ bản để làm căn cứ hủy phán quyết trọng tài thương mại. Phạm vi các nội dung được viện dẫn cũng vô cùng rộng, từ nguyên tắc đối xử công bằng, bình đẳng giữa các bên; đến việc tuân thủ các quy định về hình thức hợp đồng, giấy phép xây dựng; thậm chí cả quy định về con dấu, hợp pháp hóa lãnh sự, giám định chữ ký6.

Theo điểm đ khoản 2 Điều 14 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP, Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi: xác định được phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật; nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của trọng tài; phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba.

Tuy nhiên, pháp luật hiện hành của Việt Nam hiện nay không đưa ra bất kỳ hướng dẫn chi tiết hoặc tiêu chí cụ thể nào để xác định khi nào và như thế nào một hành vi vi phạm, việc đánh giá hoàn tòan phụ thuộc vào ý thức pháp luật của Thẩm phán. Theo các vụ án đã được công bố, Tòa án Việt Nam hiếm khi cân nhắc mức độ nghiêm trọng của việc vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” khi hủy phán quyết. Thay vào đó, họ tập trung chỉ ra “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” nào không được Hội đồng trọng tài tôn trọng khi ra phán quyết7.

2.2. Về trình tự, thủ tục hủy phán quyết trọng tài thương mại

(1) Về phạm vi xét lại của tòa án đối với các phán quyết trọng tài thương mại được yêu cầu tuyên hủy bỏ.

Để bảo đảm mục tiêu tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp, quyền tài phán của trọng tài thương mại, tính chung thẩm của phán quyết trọng tài thương mại và ngăn ngừa sự can thiệp tùy tiện của tòa án đối với các phán quyết trọng tài thương mại khi đã có hiệu lực pháp luật nên việc hủy phán quyết trọng tài cũng phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ theo luật định. Khi giải quyết, toà án không xét xử lại viêc tranh chấp bởi Toà án không phải là cấp xét xử thứ hai của trọng tài, đồng thời cũng không có quyền kết luận đúng sai về nội dung phán quyểt của trọng tài đối với vấn đề xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tranh chấp mà chỉ có quyền xem xét căn cứ để ra quyết định hủy bỏ hoặc giữ nguyên quyết định trọng tài. Trường hợp quyết định trọng tài bị hủy bỏ thì có nghĩa tranh chấp chưa được giải quyết và các bên có quyền khởi kiện tại toà án.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của Việt Nam cho thấy, khi xét lại các phán quyết trọng tài thương mại được yêu cầu tuyên hủy bỏ, tòa án đều xem xét lại các nội dung của phán quyết, dưới đây là một số ví dụ:

Quyết định số 08/2019/QĐ-PQTT ngày 25/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hủy phán quyết của VIAC vì lý do trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, cụ thể là nguyên tắc bình đẳng được quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hai yếu tố được Hội đồng xét yêu cầu của tòa án viện dẫn để chứng minh sự vi phạm nguyên tắc bình đẳng, phân biệt đối xử không công bằng, đó là: (1) Bị đơn A có nghĩa vụ phải thanh toán cho nguyên đơn K toàn bộ số tiền, số tiền đó quá hạn thanh toán nhưng mới chỉ được A thanh toán một phần; Hội đồng trọng tài bác yêu cầu của K đối với các khoản nợ của A theo chứng từ từ số 34 – 38 và chỉ chấp nhận khoản nợ theo chứng từ số 33 là không phù hợp, không khách quan. (2) Nguyên đơn K không hoàn thành công trình phải bồi thường thiệt hại do chậm trễ, nhưng Hội đồng trọng tài đã chấp nhận yêu cầu kiện lại của bị đơn A về chi phí xây dựng bổ sung là không phù hợp, trong khi đó yêu cầu khởi kiện của K đối với các chứng từ thanh toán lại không được Hội đồng chấp thuận; trong vụ việc này Hội đồng trọng tài đã phân biệt đối xử không công bằng với nguyên đơn K, vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam được quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Theo Quyết định số 09/2020/QĐ-PQTT ngày 16/9/2020 và Quyết định số 1064/2021/QĐ-PQTT ngày 25/10/2021, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng, việc xem xét, đánh giá các chứng cứ, tình tiết của vụ án là những vấn đề liên quan đến bản chất của tranh chấp. Theo Quyết định số 1160/2021/QĐ-PQTT ngày 24/11/2021, Tòa án Nhân dân TP. Hồ Chí Minh cho rằng, việc xem xét của tòa án về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp là vấn đề về nội dung tranh chấp.

Trong các trường hợp kể trên, Tòa án Việt Nam đã xem xét và can thiệp vào nội dụng của phán quyết khi: (1) Đánh giá lại tính chính xác/đúng đắn phân tích, đánh giá và quyết định của hội đồng trọng tài về nội dung của vụ việc và/hoặc (2) thay đổi các quyết định của hội đồng trọng tài trong phán quyết và/hoặc đưa ra một quyết định khác/mới áp đặt cho các bên về nội dung.

(2) Về nghĩa vụ chứng minh khi sử dụng căn cứ phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam

Điều 68 khoản 3 điểm b Luật Trọng tài thương mại năm 2010 chỉ đề cập trách nhiệm của chính của Tòa án trong việc thu thập và xác minh chứng cứ mà không đề cập đến nghĩa vụ chứng minh của bên yêu cầu trong trường hợp này. Vấn đề đặt ra, bên yêu cầu dựa vào căn cứ này đề nghị hủy phán quyết trọng tài thương mại có nghĩa vụ chứng minh hay không hay phó thác cho tòa án có thẩm quyền? Do thiếu minh định nên trên thực tế trong nhiều vụ việc, bên yêu cầu đã lạm dụng “đẩy” trách nhiệm chứng minh sang tòa án.

Ví dụ, trong Quyết định số 04/2020/QĐ-PQTT ngày 29/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, bên yêu cầu tuyên bố phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà không đưa ra tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Sau đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã phải thực hiện việc thu thập chứng cứ trước khi ra phán quyết. Trong khi đó, ở tình huống này, bên yêu cầu đề nghị hủy phán quyết trọng tài thương mại phải có nghĩa vụ chứng minh vì những lẽ sau: 

Thứ nhất, Điều 69 khoản 1, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này thì có quyền làm đơn gửi toà án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp”. Khi áp dụng cùng với Điều 68 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài bất kể căn cứ nào mà yêu cầu đó được đưa ra.

Thứ hai, Điều 414 khoản 3 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định yêu cầu hủy phán quyết trọng tài được phân loại là một trong những việc dân sự thuộc thẩm quyền của tòa án, nghĩa là Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 sẽ được áp dụng trong tố tụng tại tòa án để xem xét, giải quyết yêu cầu hủy phán quyết đó. Theo đó, khoản 1 Điều 6 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định “Các bên liên quan có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Ngoài ra, trên thực tế, có một số trường hợp tòa án bác bỏ yêu cầu của bên yêu cầu vì bên đó không chứng minh được phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam8.

3. Một số kiến nghị

(1) Về sửa đổi, bổ sung các căn cứ để hủy phán quyết trọng tài thương mại.

Thứ nhất, cần có quy định rõ về phạm vi điều chỉnh về thẩm quyền của trọng tài thương mại. Mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài theo phương pháp “chọn – bỏ” (negative approach) là cam kết theo dạng “được làm tất cả những gì không bị hạn chế” đồng bộ với việc thiết kế vững chắc và hậu thuẫn từ các quy định pháp luật về tố tụng dân sự về thẩm quyền riêng của Tòa án. Theo đó, Trọng tài thương mại mới có khả năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, hữu hiệu và thực sự giảm tải cho Tòa án trong giải quyết tranh chấp trong đời sống pháp luật dân sự ở Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định về thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Cần bổ sung quy định chi tiết về nội dung thỏa thuận trọng tài, như: các quy định về quyền hạn, nghĩa vụ, về chi phí, lệ phí trọng tài, ngôn ngữ, quy phạm văn bản, quy tắc tố tụng, cam kết thực hiện phán quyết trọng tài…

Cần sửa đổi, bổ sung quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu phù hợp với quy định của pháp luật dân sự, cụ thể năng lực dân sự của các bên thực hiện xác lập thỏa thuận trọng tài thương mại. Thỏa thuận trọng tài cũng được xem là một thỏa thuận dân sự do các bên có đầy đủ năng lực dân sự thực hiện giao kết. Trong nhiều trường hợp, tố tụng trọng tài là do đương sự lựa chọn hoặc do các bên thỏa thuận. Mối quan hệ giữa Hội đồng trọng tài và các bên trong tranh chấp (quyền và nghĩa vụ của Hội đồng trọng tài và các bên trong một vụ việc cụ thể có thể là mối quan hệ hợp đồng). Do đó, các bên có thể tự do thỏa thuận bằng văn bản (thỏa thuận trọng tài, quy tắc trọng tài hay thỏa thuận riêng của các bên…) hoặc bằng hành vi cụ thể (biết nhưng im lặng và không phản đối) đối với tất cả các quyền và nghĩa vụ đó trong giới hạn pháp luật áp dụng cho phép. Vì vậy, biết vi phạm mà không phản đối trong thời hạn thì được coi là các bên đã lựa chọn, đã đồng ý về thành phần, về tố tụng, về thẩm quyền… của trọng tài. Nó khác hẳn với tố tụng dân sự là tố tụng luật định.

Thứ ba, không sử dụng khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” và thay bằng “chính sách công” hoặc “trật tự công”. Căn cứ để hủy phán quyết trọng tài thương do vi phạm “chính sách công” hoặc “trật tự công” cần được nhận thức, diễn giải và áp dụng theo nghĩa hẹp. Theo đó, không phải mọi hành vi vi phạm điều khoản bắt buộc của quốc gia đều cấu thành hành vi vi phạm chính sách công; chỉ những điều khoản của luật là nền tảng cho trật tự pháp lý hoặc đạo đức cơ bản của một quốc gia mới là căn cứ cho một chính sách công.

(2) Về sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ chứng minh và phạm vi xét lại của Tòa án đối với các phán quyết Trọng tài thương mại được yêu cầu tuyên hủy bỏ.

Khoản 3 Điều 68 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng làm rõ nghĩa vụ chứng minh của bên yêu cầu khi yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thương mại do vi phạm “chính sách công” hoặc “trật tự công”. Đồng thời, cần quy định một trình tự, thủ tục chặt chẽ và nghĩa vụ chứng minh đối với một phán quyết trọng tài thương mại do vi phạm “chính sách công” hoặc “trật tự công”. Chỉ khi đó, việc thi hành các phán quyết của trọng tài thương mại mới hiệu quả, nâng cao uy tín của thiết chế trọng tài thương mại, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh tại Việt Nam vững vàng tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Để ngăn ngừa sự can thiệp tùy tiện của tòa án đối với các phán quyết trọng tài thương mại khi đã có hiệu lực pháp luật, cần sửa đổi, bổ sung pháp luật về trọng tài thương mại theo hướng chỉ rõ nguyên tắc tòa án không xét lại nội dung tranh chấp bao gồm nhưng không hạn chế bởi các vấn đề: (1) các yêu cầu hoặc phản tố của các bên tranh chấp, (2) các sự kiện, chứng cứ do các bên cung cấp và luận cứ của họ về các yêu cầu đó, và (3) Xem xét, phân tích, đánh giá của hội đồng trọng tài về yêu cầu hoặc phản tố và nội dung vụ việc.

Chú thích:
1. Fred Burke (2015). The 2015 report of the Investment and Trade Working Group. Vietnam Business Forum, Fred Burke, p.1-2.
2. UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration (1985), with amendments as adopted in 2006.
3. Điều V (2) b Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài quy định: “Việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối nếu cơ quan có thẩm quyền ở quốc gia nơi công nhận và cho thi hành thấy rằng việc công nhận và thực thi phán quyết sẽ trái với chính sách công của quốc gia đó”.
4. Vụ việc Eastern Associated Coal Corp vs United Mine Workers of Am. Tòa án Hoa Kỳ đã đưa ra ý kiến rằng “chính sách công phải rõ ràng, được xác định rõ ràng và chi phối, đồng thời phải được xác định bằng cách tham khảo luật pháp và tiền lệ pháp lý chứ không phải từ những cân nhắc chung về lợi ích công cộng được cho là”. Eastern Associated Coal Corp. v. United Mine Workers of Am., 531 U.S. 57, 62 (2002). https://supreme.justia.com/cases/federal/us/531/57.
5. Gary Born. 2021. International Commercial Arbitration (3rd ed.). Wolters Kluwer.
6. Ngày 04/7/2023 Tòa án nhân dân TP. Hà Nội đã ban hành Quyết định số 12/2023/QĐ-PQTT hủy phán quyết của VIAC vì một số lý do, trong đó có các lý do sau: tài liệu sử dụng trong phán quyết không được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 và Hội đồng trọng tài đã vi phạm nguyên tắc khách quan khi giải quyết tranh chấp do không chấp nhận yêu cầu giám định chữ ký của bị đơn.
7. Quyết định số 12/2023/QD-PQTT ngày 04/7/2023. https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1225914t1cvn/chi-tiet-ban-an.
8. Quyết định số 1160/2021/QD-PQTT ngày 24/11/2021 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo:
1. Tranh cãi pháp lý vụ bán cổ phần trị giá hơn 2000 tỷ đồng. https://vneconomy.vn/tranh-cai-phap-ly-vu-ban-co-phan-tri-gia-hon-2-000-ty dong.htm?
2. Quốc hội (2005). Bộ luật Dân sự năm 2005.
3. Quốc hội (2015). Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
4. Quốc hội (2005). Luật Thương mại năm 2005.
5. Quốc hội (2010). Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
6. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2014). Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại.