Phát huy truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới

TS. Cao Thị Hà
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh nội sinh quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh kỷ nguyên số, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và các thách thức toàn cầu gia tăng, yêu cầu củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết càng trở nên cấp bách. Thực tiễn 40 năm đổi mới cho thấy, việc phát huy đại đoàn kết đã tạo động lực để Việt Nam đạt nhiều thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế và giảm nghèo bền vững. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIVcủa Đảng tiếp tục nhấn mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa, “thế trận lòng dân” và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bài viết làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong giai đoạn mới.

Từ khóa: Đại đoàn kết toàn dân tộc; tư tưởng Hồ Chí Minh; Nghị quyết 43-NQ/TW; Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV; kỷ nguyên vươn mình; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống thiêng liêng, được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam. Bước vào thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống ấy được Đảng nâng lên tầm tư tưởng chiến lược, coi dân là gốc và xác định đoàn kết là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng. Thực tiễn 95 năm qua chứng minh, nhờ phát huy sức mạnh đại đoàn kết mà đất nước giành độc lập, thống nhất và đạt nhiều thành tựu quan trọng trong đổi mới, giảm nghèo và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh kỷ nguyên số và biến động toàn cầu nhanh, phức tạp, yêu cầu củng cố đại đoàn kết càng trở nên cấp thiết. Do đó, việc nghiên cứu giải pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc hiện nay.

2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên mới

Trong phân tích lịch sử nhân loại, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra rằng, động lực của mọi cuộc cách mạng không xuất phát từ cá nhân kiệt xuất mà từ quần chúng bị áp bức, mang khát vọng tự giải phóng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Sự giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của chính bản thân giai cấp công nhân”1. Đây là luận đề cơ bản cho thấy, cách mạng chỉ thành công khi đa số Nhân dân được tổ chức thành một khối thống nhất về ý chí và hành động; đoàn kết không phải lời kêu gọi cảm tính mà là hệ quả tất yếu của điều kiện kinh tế – xã hội trong chủ nghĩa tư bản, nơi quá trình công nghiệp hóa hợp nhất những người lao động riêng lẻ thành một giai cấp với lợi ích chung.

Từ nền tảng đó, V.I. Lênin phát triển toàn diện lý luận về vai trò của liên minh công – nông và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong Làm gì? (1902), Lênin nêu rõ: “Không có phong trào cách mạng thì không thể có Đảng cách mạng”2. Đảng cách mạng chỉ mạnh khi gắn bó mật thiết với Nhân dân, biết tổ chức, giác ngộ và dẫn dắt quần chúng đấu tranh. Với những nước nông nghiệp là chủ yếu, Lênin đặc biệt nhấn mạnh liên minh công – nông như điều kiện sống còn của cách mạng. Tư tưởng này phù hợp sâu sắc với điều kiện Việt Nam trước năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến, khi lực lượng nông dân tạo thành “biển người” của cách mạng.

Trong lịch sử Việt Nam, truyền thống cố kết cộng đồng được hình thành và nuôi dưỡng qua hàng nghìn năm đã tạo nên nền tảng văn hóa, tinh thần đặc sắc, từ đó tư tưởng đại đoàn kết không chỉ được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác – Lênin mà còn thấm sâu trong bản sắc dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, Nhân dân là cội nguồn sức mạnh của cách mạng, nhấn mạnh rằng không gì quý bằng Nhân dân và không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân; đồng thời Người căn dặn Đảng phải đặt niềm tin tuyệt đối vào trí tuệ, sức sáng tạo và tinh thần vượt khó của dân qua lời dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”3. Từ tổng kết thực tiễn cách mạng, Người nêu chân lý mang tính phương châm hành động: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”4, yêu cầu Đảng phải thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của Nhân dân. Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng mặt trận đoàn kết đến mọi lực lượng yêu nước: công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thương, tư sản dân tộc, đồng bào tôn giáo, dân tộc thiểu số, kiều bào… miễn là cùng chung khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và phát triển đất nước.

Những tư tưởng chiến lược về đại đoàn kết đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng nhất quán trong suốt tiến trình cách mạng, từ Cương lĩnh 1930 xác định xây dựng mặt trận thống nhất là phương thức cơ bản để tập hợp sức mạnh toàn dân, đến Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) nâng tinh thần đại đoàn kết trở thành một luận điểm mang tính lý luận, coi đó là “động lực chủ yếu để phát triển đất nước trên nền tảng liên minh công – nông – trí thức”. Điều này cho thấy, đại đoàn kết không chỉ là nguyên tắc chính trị bền vững mà còn phù hợp quy luật phát triển của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.

Bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc biệt là chuyển đổi số, tư tưởng đại đoàn kết tiếp tục được Đảng phát triển toàn diện hơn. Văn kiện Đại hội XIII (2021) nhấn mạnh muốn phát triển nhanh, bền vững phải khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy mạnh mẽ ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Đây là bước phát triển mới, chuyển từ đoàn kết trong chiến tranh giải phóng sang đoàn kết trong kiến tạo quốc gia hùng cường, coi đoàn kết là điều kiện nền tảng để cạnh tranh, thích ứng và vươn lên trong thế giới biến động.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng với nhiều thách thức, như: biến đổi khí hậu, dịch bệnh và an ninh phi truyền thống, yêu cầu củng cố khối đại đoàn kết càng trở nên cấp bách. Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) nhấn mạnh xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, coi đây là nhân tố quyết định ổn định chính trị – xã hội và là “lá chắn” trước diễn biến hòa bình, thông tin xấu độc. Đáng chú ý, văn kiện lần đầu xác định “không gian số” là mặt trận mới của công tác dân vận, thể hiện bước phát triển quan trọng về tư duy trong kỷ nguyên số.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục làm sâu sắc nội hàm đại đoàn kết, nhấn mạnh đoàn kết phải gắn với dân chủ và công bằng xã hội; chỉ bền vững khi mọi nhóm xã hội có cơ hội phát triển và chênh lệch vùng miền được thu hẹp. Một điểm mới quan trọng của văn kiện là nhấn mạnh vai trò giai cấp công nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0, coi công nhân không chỉ là lực lượng sản xuất truyền thống mà là lực lượng lao động tri thức, làm chủ công nghệ cao. Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại vừa là nhiệm vụ kinh tế vừa là yêu cầu chính trị để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thực tiễn gần bốn thập kỷ đổi mới đã chứng minh một cách thuyết phục, giá trị, vai trò và sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc đối với sự phát triển của đất nước. Các thành tựu nổi bật trên mọi lĩnh vực: từ kinh tế, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh và đối ngoại đều gắn liền với sự đồng thuận xã hội và sự tham gia chủ động của Nhân dân. Đại đoàn kết không chỉ là khái niệm mang tính lý luận mà đã trở thành nguồn lực vật chất và tinh thần đặc biệt, tạo “lực hấp dẫn” thu hút nguồn lực và “lực đẩy” giúp đất nước vượt qua nhiều thách thức của thời kỳ hội nhập và biến động toàn cầu.

Trong lĩnh vực kinh tế, sự đồng lòng của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp tạo nền tảng cho tăng trưởng và hội nhập sâu rộng. Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 732 tỷ USD, lần đầu tiên vượt mốc 700 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại cao nhất khu vực5. Năm 2024, tăng trưởng GDP đạt 7,09 thuộc nhóm tăng trưởng nhanh nhất châu Á6.

Trong lĩnh vực chính trị – xã hội, sức mạnh đại đoàn kết tạo nền tảng ổn định, thể hiện qua tỷ lệ 79,3%xã đạt chuẩn trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục phát huy hiệu quả tự quản ở cơ sở. Đối với quốc phòng – an ninh, Nhân dân là “bức tường thành vững chắc”, tham gia bảo vệ chủ quyền và đấu tranh phản bác thông tin xấu độc. Trên mặt trận đối ngoại, sự đồng thuận và ủng hộ của Nhân dân đối với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ góp phần nâng cao vị thế Việt Nam tại ASEAN, Liên Hợp quốc và Hội đồng Nhân quyền. 

3. Những thách thức mới đặt ra đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong kỷ nguyên số

Thứ nhất, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số đang làm gia tăng phân hóa giàu nghèo, chênh lệch vùng miền và bất bình đẳng trong tiếp cận cơ hội phát triển. Trong khi đô thị, đồng bằng và khu công nghiệp tăng trưởng nhanh, nhiều vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và khu vực đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chịu tỷ lệ nghèo cao và hạ tầng hạn chế. Nếu không có cơ chế phân phối hợp lý và chính sách an sinh đủ mạnh, nguy cơ nảy sinh tâm lý so bì, bất mãn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai, không gian mạng đang trở thành “mặt trận” mới của đời sống xã hội. Bên cạnh tác dụng lan tỏa tri thức và kết nối cộng đồng, môi trường số lại là nơi tin giả, luận điệu xuyên tạc, thông tin sai lệch lan truyền với tốc độ lớn, gây chia rẽ và làm xói mòn lòng tin của Nhân dân. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng mạng xã hội để chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi nhọ cán bộ, kích động cực đoan. Nếu không tăng cường “sức đề kháng số”, xây dựng văn hóa số và nâng cao kỹ năng truyền thông cho người dân, khối đại đoàn kết sẽ chịu tác động tiêu cực.

Thứ ba, biến đổi khí hậu và các thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng tác động mạnh đến đời sống Nhân dân, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Tình trạng xâm nhập mặn, lũ lụt, sạt lở, bão lũ bất thường gây thiệt hại nặng nề, buộc nhiều cộng đồng phải di dời, dễ phát sinh tranh chấp đất đai, sinh kế. Nếu thiếu chính sách tổng thể và sự hỗ trợ của cả hệ thống chính trị – xã hội, các mối liên kết cộng đồng rất dễ bị đứt gãy, ảnh hưởng đến nền tảng đoàn kết.

Thứ tư, tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài liên quan đất đai, môi trường, bồi thường, giải phóng mặt bằng… nếu giải quyết chậm hoặc thiếu thấu đáo sẽ làm gia tăng bức xúc, bị các thế lực xấu lợi dụng để kích động, tạo điểm nóng. Một bộ phận cán bộ cơ sở còn biểu hiện quan liêu, xa dân, thiếu trách nhiệm, làm suy giảm niềm tin của Nhân dân, yếu tố cốt lõi của đại đoàn kết.

Thứ năm, những tác động từ mặt trái toàn cầu hóa và giao lưu văn hóa dẫn đến sự du nhập của lối sống thực dụng, cá nhân chủ nghĩa, tâm lý “sùng ngoại” trong một bộ phận thanh niên; một số giá trị truyền thống có dấu hiệu phai nhạt. Khoảng cách thế hệ ngày càng rõ hơn, đòi hỏi phải xây dựng hệ giá trị phù hợp và tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức, văn hóa để củng cố nền tảng tinh thần của đoàn kết.

Những thách thức hiện nay đòi hỏi đổi mới mạnh mẽ tư duy và phương thức phát huy đại đoàn kết theo tinh thần Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV. Trọng tâm là gắn kết với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; phát huy dân chủ đi đôi với kỷ cương, pháp luật và bảo đảm công bằng, công lý xã hội. Đồng thời, cần tăng cường đối thoại, tạo đồng thuận xã hội và đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị nhà nước, qua đó củng cố niềm tin và sức mạnh đoàn kết trong bối cảnh mới.

4. Một số giải pháp 

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị về vị trí then chốt của đại đoàn kết; coi “thế trận lòng dân” là nhân tố quyết định. Bước vào thế kỷ XXI, đặc biệt sau đại dịch Covid-19 và trong bối cảnh thế giới rơi vào trạng thái “đa khủng hoảng” với những cú sốc kinh tế, môi trường, an ninh phi truyền thống và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, yêu cầu tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc đặt ra cho Việt Nam những đòi hỏi mới, cả từ bên ngoài lẫn bên trong. Các biến động này vừa tạo áp lực lên tiến trình phát triển, vừa khuếch đại những vấn đề nội tại, khiến hệ thống chính trị phải nhận thức sâu sắc hơn tính “then chốt” của đại đoàn kết và coi “thế trận lòng dân” là nhân tố quyết định trong mọi chiến lược phát triển và bảo vệ Tổ quốc. 

Trong bối cảnh đó, yêu cầu nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị về vai trò quyết định của đại đoàn kết trở thành nhiệm vụ nền tảng, bảo đảm mọi chính sách đều xuất phát từ lợi ích và kỳ vọng của Nhân dân; đồng thời đòi hỏi tăng cường đào tạo cán bộ gắn với tri thức về công bằng xã hội, quản trị rủi ro, không gian số và biến đổi khí hậu. Nhận thức đúng và mới về đại đoàn kết để triển khai hiệu quả các nhiệm vụ tiếp theo.

Hai là, hoàn thiện chính sách dân tộc, tôn giáo, kiều bào; bảo đảm công bằng, bình đẳng, không để ai bị bỏ lại phía sau. Trong bối cảnh mới, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ có thể bền vững khi gắn với công bằng xã hội, bình đẳng và bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi nhóm dân cư, đòi hỏi hệ thống chính sách dân tộc, tôn giáo, kiều bào và an sinh xã hội được thiết kế theo tư duy bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau. Trong lĩnh vực tôn giáo, nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, mở rộng đối thoại, xử lý kịp thời các vấn đề về đất đai, cơ sở thờ tự để tránh “điểm nóng”, đồng thời khuyến khích các tổ chức tôn giáo tham gia sâu hơn vào giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho đầu tư, sở hữu tài sản, xuất nhập cảnh và đóng góp trí tuệ, qua đó phát huy vai trò cầu nối tri thức, công nghệ và nguồn lực, đồng thời hóa giải khác biệt nhận thức và hạn chế tác động xuyên tạc trên không gian mạng.

Song hành với đó, hệ thống an sinh xã hội phải phát triển theo hướng đa tầng, bền vững và thực chất để thu hẹp chênh lệch giàu – nghèo và hỗ trợ các nhóm dễ tổn thương, như: lao động di cư, lao động phi chính thức, phụ nữ nghèo và người khuyết tật thông qua việc mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp có điều kiện và đầu tư hạ tầng xã hội thiết yếu. Tổng thể các chính sách này phải cùng hướng tới bảo đảm công bằng trong tiếp cận cơ hội phát triển để mọi công dân, dù ở đâu hay thuộc dân tộc, tôn giáo nào, đều có thể đóng góp và thụ hưởng thành quả chung, qua đó tạo nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới.

Ba là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với tăng cường pháp chế, kỷ cương; đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn với chuyển đổi sốTrong tiến trình xây dựng và củng cố đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một động lực quan trọng nhưng chỉ phát huy hiệu quả khi gắn với pháp luật, kỷ luật, kỷ cương và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ ở cơ sở chỉ thực chất khi người dân được tham gia vào những quyết định liên quan trực tiếp đến đời sống và được bảo vệ trước hành vi nhũng nhiễu. Đi đôi với mở rộng dân chủ là củng cố kỷ luật, kỷ cương, nhất là trong công tác cán bộ và phòng, chống tham nhũng. Khi minh bạch và trách nhiệm giải trình được củng cố, niềm tin của Nhân dân vào dân chủ xã hội chủ nghĩa được tăng lên, tạo nền tảng vững chắc cho “thế trận lòng dân” trong giai đoạn mới.

Bốn là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội; phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết. Mặt trận và các đoàn thể cần chuyển từ vận động phong trào sang mô hình “dịch vụ công xã hội” chuyên nghiệp, chú trọng bảo vệ quyền lợi hội viên, hỗ trợ pháp lý, an sinh, đào tạo nghề và kết nối việc làm. Công tác giám sát, phản biện xã hội phải được nâng tầm. cùng với đó, các tổ chức, như: Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ… cần tái định vị chức năng trong kỷ nguyên số, từ bảo vệ người lao động trước tự động hóa đến thúc đẩy thanh niên, nông dân, phụ nữ tham gia kinh tế số. Đồng thời, đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng nền tảng tương tác trực tuyến và ứng dụng dữ liệu lớn để nắm bắt dư luận và định hướng thông tin. 

Năm là, chăm lo phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức thiết. Đại đoàn kết toàn dân tộc trước hết được xây dựng trên nền tảng con người – chủ thể của phát triển và trung tâm của mọi chính sách. Chỉ khi chăm lo tiến bộ, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng đời sống, niềm tin và sức mạnh nội sinh của dân tộc mới được củng cố. 

Sáu là, mở rộng khối đoàn kết quốc tế, gắn kết sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục là trụ cột mở ra cơ hội lớn về mở rộng thị trường, thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất nhập khẩu. Cùng với đó, ngoại giao nhân dân và hợp tác quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng không gian đoàn kết. Quan hệ đoàn kết quốc tế rộng mở cũng giúp Việt Nam tranh thủ sự ủng hộ quốc tế trong xử lý các thách thức toàn cầu, như: biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, dịch bệnh và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Hình ảnh một Việt Nam độc lập, hòa bình, hợp tác và tôn trọng luật pháp quốc tế vì thế tiếp tục là nền tảng quan trọng để kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước trong giai đoạn mới.

Bảy là, xây dựng bộ chỉ số về đại đoàn kết toàn dân tộc và cơ chế báo cáo, giám sát định kỳ. Trong quản trị hiện đại, đại đoàn kết toàn dân tộc không thể chỉ dừng ở khẩu hiệu mà cần được lượng hóa bằng các công cụ đo lường khách quan. Bộ chỉ số có thể bao gồm các nhóm tiêu chí, như: niềm tin xã hội, mức độ tham gia chính trị – xã hội, mức độ công bằng và bao trùm, chỉ số gắn kết cộng đồng và “sức khỏe thông tin” phản ánh khả năng ứng phó với tin giả. Việc thiết kế cần dựa trên nghiên cứu khoa học, tham khảo các khảo sát, như: PAPI, PCI, SIPAS, CGGI và gắn với cơ chế báo cáo định kỳ để tạo công cụ giám sát, so sánh giữa các địa phương, qua đó thúc đẩy đổi mới công tác dân vận và phương thức lãnh đạo. 

5. Kết luận

Trong suốt tiến trình cách mạng, đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là nguồn sức mạnh nội sinh quyết định mọi thắng lợi của Đảng và dân tộc. Bước vào kỷ nguyên mới với những thời cơ và thách thức đan xen yêu cầu phát huy sức mạnh đại đoàn kết càng trở nên cấp bách. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định các định hướng lớn: tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa, củng cố “thế trận lòng dân”, đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, chăm lo đội ngũ trí thức, tạo đồng thuận xã hội và bảo đảm an sinh bền vững. Khi ý Đảng hòa quyện với lòng dân, sức mạnh đại đoàn kết sẽ tiếp tục là động lực đưa đất nước phát triển phồn vinh và hạnh phúc.

Chú thích:

1, 2. C. Mác và Ph. Ăng – ghen toàn tập (1995). Tập 20. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 14, 14.

3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 119.

4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 280.

5. Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 732 tỷ USD. https://vnexpress.net/xuat-nhap-khau-viet-nam-nam-2022-vuot-730-ty-usd.

6. GDP năm 2024 tăng 7,09%. https://vnexpress.net/gdp-nam-2024-tang-7-09-4835950.html

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2024 – 2025). Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV (tài liệu lưu hành nội bộ).

4. Đoàn kết trong Đảng – biểu hiện sâu sắc nhất của đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/06/17/doan-ket-trong-dang-bieu-hien-sau-sac-nhat-cua-dai-doan-ket-dan-toc-trong-boi-canh-hien-nay/