Nâng cao năng lực và đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước gắn với đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế

(QLNN) – Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi ngày một cao của tiến trình đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế, việc đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là cực kỳ quan trọng.

 

(Ảnh: Báo Thế giới và Việt Nam)
Xu thế hội nhập và dịch chuyển kinh tế thế giới

Những năm gần đây, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia nhất là các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ (KHCN), đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.

Tình hình chính trị – an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ,… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực.

Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh mẽ đến cục diện toàn thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế.

Quá trình tái cấu trúc kinh tế toàn cầu đã hình thành nên các khối, các không gian, địa kinh tế đang trở thành hiện hữu. Cấu trúc kinh tế thế giới chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của các nền kinh tế mới nổi, trong đó đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế – chính trị chiến lược quan trọng.

Đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, nên trong thời gian này có nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Nga thực hiện chiến lược xoay trục sang khu vực này. Các nước ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức mới. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp, gây nên sự bất ổn của khu vực.

Xu hướng hợp tác phát triển và liên kết toàn cầu vì tương lai của loài người trên trái đất, nhiều hình thức và nội dung liên kết mới trong từng lĩnh vực và từng khu vực sẽ xuất hiện. Xu hướng các nước đẩy mạnh đàm phán và ký kết các hiệp định tự do thương mại song phương (FTA) sẽ tiếp tục phát triển, nhất là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản. Các quan hệ hợp tác đa phương, các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như ASEAN, APEC, OPEC, WTO, các nền kinh tế mới nổi (Bra-xin, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ)… sẽ tăng cường liên kết, củng cố trong từng khối liên minh cạnh tranh và phát triển.

Hệ thống phân công lao động quốc tế được tổ chức lại và vận hành theo một nguyên lý mới, nguyên lý “chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu”. Các hiệp định hợp tác song phương của nước ta với các nước, đặc biệt là các nước lớn và các nước trong khu vực sẽ được tiếp tục ký kết và nâng lên tầm chiến lược mới, tạo ra cho Việt Nam có nhiều thuận lợi để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, hiệu quả và bền vững; tạo điều kiện cải thiện và nâng cao mặt bằng các cân đối vĩ mô của nền kinh tế, trong đó đặc biệt là cán cân thanh toán quốc tế; đồng thời tăng khả năng xuất nhập khẩu và tăng khả năng thu hút vốn đầu tư.

Kinh tế thế giới phục hồi chậm, gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn có nhiều biến động khó lường. Các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Biến động của giá cả thế giới, sự bất ổn về tài chính, tiền tệ và vấn đề nợ công tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối với nền kinh tế thế giới. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ KHCN để phát triển.

Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế hệ mới. Kinh tế thế giới hiện đang bị chi phối rất lớn bởi hai xu thế là toàn cầu hóa và chuyển nhanh sang thời đại phát triển dựa trên một lợi thế mới là tri thức. Theo đó, buộc các nước đi sau phải có sự đổi mới toàn diện, sâu sắc về nhận thức, lý luận, cơ cấu kinh tế, KHCN và quản lý, năng lực cạnh tranh quốc gia trong các ngành, sản phẩm cá biệt nếu không muốn bị tụt hậu.

Khủng hoảng và sự phục hồi kinh tế, mức tăng trưởng của Việt Nam 5 năm qua (2011 – 2015)

Việt Nam đã trải qua 5 năm (2011 – 2015) tập trung chủ lực cho việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội. Các cơ quan nhà nước đã dành thời gian, trí tuệ cho việc hoàn thiện thể chế cơ chế thị trường, tạo lập được nền móng của thể chế vững chắc; nhiều Luật, Bộ luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã ban hành, tạo ra môi trường đầy đủ thúc đẩy việc tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế như Luật Đầu tư công, Luật Quản lý vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp, hoặc là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư

Các đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế đã được đẩy mạnh, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng chiều sâu, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động và sức cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng, đạt trên 83% vào năm 2015. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm, còn khoảng 46,5%.

Tập trung thực hiện tái cơ cấu về đầu tư công, hệ thống các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Từ đó, giúp ta có cơ sở về thể chế thúc đẩy cho quá trình tăng trưởng kinh tế tốt hơn trong giai đoạn tới. Kinh tế tiếp tục phục hồi, tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra. Kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm.

Biểu hiện rõ ràng nhất là tăng trưởng GDP của năm sau luôn cao hơn năm trước; năng suất lao động cũng có sự tăng trưởng nhất định, hệ số ICO cũng có sự giảm xuống, như vậy bảo đảm được chất lượng nền kinh tế. Tính riêng năm 2015, tăng trưởng kinh tế đã tăng vượt so với chỉ tiêu đề ra và đạt mức 6,68% (chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 6,2%).

Việc triển khai, thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng được đẩy mạnh. An sinh xã hội được bảo đảm; phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân được cải thiện; công tác giảm nghèo, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công, chăm sóc sức khỏe nhân dân được triển khai tích cực.

Cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh có bước tiến mới. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm được tập trung chỉ đạo, tạo ra những chuyển biến tích cực. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng nổi bật, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, các hiệp định thương mại cơ hội và thách thức

Trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã nhận thức rõ hơn, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội; từ chỗ áp dụng cơ chế thị trường tiến tới phát triển kinh tế thị trường, chúng ta đã từng bước cụ thể hóa mô hình và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được xây dựng đồng bộ hơn, bảo đảm quan hệ cung cầu, cạnh tranh lành mạnh, sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách vĩ mô theo các nguyên tắc của thị trường. Trong nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.

Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết và phù hợp với nguyên tắc của thị trường; xây dựng, hoàn thiện thể chế, tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

Dưới sự tác động của các chính sách, các yếu tố thị trường và các loại thị trường đang hình thành, phát triển, cơ bản đã có sự liên thông, gắn kết thị trường trong nước với thị trường khu vực và quốc tế. Giá cả hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ đã vận hành theo giá thị trường, được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường.

Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới. Các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Kiên định trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của đất nước. Quản lý và xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển với các nước láng giềng. Làm tốt công tác bảo hộ công dân.

Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Chúng ta đã thực sự bắt đầu triển khai mạnh việc tham gia hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế.

Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia ký kết 11 Hiệp định thương mại tự do gồm: WTO; TPP, Việt Nam – EU (FTA VN-EU), ASEAN; ASEAN – Ấn Độ; ASEAN – Ốt-xtrây-li-a/Niu Di-lân; ASEAN – Hàn Quốc; ASEAN – Nhật Bản; ASEAN – Trung Quốc; Việt Nam – Nhật Bản và Việt Nam – Chilê… Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã xúc tiến với bước đi khá vững chắc và đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ.

Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế với hàng loạt quốc gia và khu vực, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế, thương mại chủ chốt, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng hiệu quả hơn. Với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập, nước ta ngày càng năng động tiếp thu KHCN, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ quản trị kinh doanh.

Hoạt động ngoại giao đa phương có sự trưởng thành rõ rệt. Tăng cường hợp tác và đối thoại chiến lược với nhiều đối tác; nâng cấp quan hệ song phương với một số quốc gia thành đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện; đưa quan hệ hợp tác với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn.

Đã chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc. Kiên trì cùng ASEAN thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) và tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Tích cực triển khai các hiệp định, thỏa thuận thương mại đã có và đàm phán, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy phát triển và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế.

Vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên. Thông qua đó, Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia giải quyết những vấn đề chính trị – xã hội, an ninh quốc tế có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, đồng thời đóng góp tích cực hơn và nhiều hơn trong nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trên thế giới.

Bên cạnh những thành tựu lớn, quá trình hội nhập quốc tế của nước ta cũng còn những khó khăn, hạn chế nhất định. Trong một số lĩnh vực quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế vào những thời điểm cụ thể, sự đổi mới tư duy còn chậm, chưa đáp ứng được tốt nhất yêu cầu phát triển trong nước và phù hợp với những chuyển biến của tình hình thế giới.

Một số mối quan hệ đối ngoại đã được xác lập nhưng vẫn còn những biểu hiện hạn chế về tính chiều sâu, vẫn còn cần có thêm các nhân tố cho sự phát triển vững chắc, ổn định, lâu dài. Mối quan hệ giữa kinh tế, an ninh, chính trị, đối ngoại trong một số trường hợp cụ thể chưa gắn kết thật mật thiết với nhau. Sau thời kỳ mở rộng quan hệ đối ngoại, chưa có nhiều bước đột phá mới nhằm khai thác tốt nhất quan hệ lợi ích đan xen tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là với một số nước lớn có liên quan đến lợi ích chiến lược của nước ta.

Trong công tác hội nhập quốc tế, tiến độ của công việc chuẩn bị về pháp lý và thể chế vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu hội nhập, với những chuyển biến mới của tình hình thế giới và khu vực. Nền tảng để phát triển nền kinh tế bền vững chưa vững chắc, môi trường thu hút đầu tư, năng lực giải ngân các dự án đầu tư nước ngoài và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế còn hạn chế…

Việc xử lý một vài vấn đề trong nước chưa tính toán thật đầy đủ đến phản ứng và tác động quốc tế nhằm hạn chế việc bị các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng gây khó khăn về ngoại giao. Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại còn biểu hiện chưa nhạy bén, hình thức chưa sinh động, hấp dẫn; cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa đồng bộ, hiệu quả chưa như mong muốn.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD), xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế nhìn chung còn không ít bất cập, chưa thật sự ngang tầm chiến lược của thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Công tác nghiên cứu cơ bản, dự báo chiến lược trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế còn hạn chế.

Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay không chỉ có thời cơ và thuận lợi, mà còn phải đối diện với nhiều thách thức lớn:

Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh…

Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh tranh cả ở trong nước và cả trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều đối tác hơn, trên bình diện sâu rộng hơn.

Hai là, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác, nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính – tiền tệ, đầu tư… chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu.

Ba là, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa đặt ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự phân tầng, phân hóa xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển của đất nước.

Bốn là, hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Về an ninh quốc gia, các nguy cơ đe dọa an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm họa mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường, dịch bệnh, khủng bố…). Về văn hóa, hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị ngoại lai, nhất là các giá trị văn hóa phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hóa dân tộc.

Năm là, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của Nhà nước… Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực.

Một số yêu cầu của đổi mới kinh tế, chú trọng tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn hiện nay

Giai đoạn 2016 – 2020, nền kinh tế Việt Nam được kỳ vọng sẽ thoát khỏi giai đoạn suy giảm và bắt đầu vào chu kỳ phục hồi mới. Những cải cách về thể chế của nền kinh tế sẽ phát huy hiệu quả, hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam sẽ có chuyển biến to lớn trong những năm tiếp theo. Năm 2016 là năm khởi đầu của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020, một khởi đầu của tiến trình phát triển mới của nền kinh tế. Thêm vào đó, đây cũng là năm khởi đầu một tiến trình hội nhập mới khi hàng loạt các cam kết hội nhập có hiệu lực.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần quan tâm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước (QLNN); phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, tăng cường ứng dụng tiến bộ KHCN, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Đổi mới mô hình tăng trưởng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển, đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của nội lực trong nước, của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp.

Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KHCN và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập khẩu công nghệ mới tiên tiến; thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại; phát huy tiềm năng con người và khuyến khích phát triển mạnh mẽ các thị trường sản xuất gắn kết chặt chẽ với thị trường thương mại, phát động tinh thần sản xuất kinh doanh của mọi người lao động để chủ động khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị và năng lực cạnh tranh quốc gia và tham gia có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng: cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Cơ cấu lại nông nghiệp, gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp, phát triển công nghiệp gắn với đô thị hoá và xây dựng nông thôn mới. Khuyến khích khởi nghiệp doanh nghiêp và doanh nghiệp với sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân.

Đẩy mạnh cơ cấu lại công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNHHĐH). Phát triển mạnh mẽ công nghiệp vật liệu và vật liệu mới tạo ra nhiều sản phẩm chủ lực có sức cạnh tranh cao, gắn thị trường sản xuất với thị trường công nghệ, với thị trường thương mại. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp, xây dựng bình quân khoảng 7,5%/năm; đến năm 2020 tỷ trọng công nghiệp, xây dựng trong GDP khoảng 40%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 25%, trong đó công nghiệp chế tạo khoảng 15%.

Đẩy mạnh phát triển dịch vụ trở thành ngành công nghiệp dịch vụ, tạo động lực cho công nghiệp hóa. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7 – 7,5%/năm. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP khoảng 45% vào năm 2020. Ưu tiên phát triển những ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức, công nghệ và giá trị gia tăng cao.

Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.

Phát triển các vùng và khu kinh tế. Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương; tạo điều kiện phát triển các khu vực còn nhiều khó khăn, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và phía Tây các tỉnh miền Trung; lựa chọn một số khu có lợi thế đặc biệt để xây dựng đặc khu kinh tế với thể chế vượt trội, hiệu lực, hiệu quả, có khả năng cạnh tranh quốc tế,…

Đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp. Thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực quan trọng và địa bàn chiến lược. Tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển mạnh doanh nghiệp tư nhân để tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Rà soát, sửa đổi pháp luật, chính sách để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa cao, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. Khuyến khích phát triển bền vững kinh tế hợp tác, nòng cốt là hợp tác xã với nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng; tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển có hiệu quả trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; góp phần hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ; bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia. Tạo điều kiện hình thành những tổ hợp nông – công nghiệp – dịch vụ công nghệ cao.

Đẩy mạnh CNHHĐH để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Xác định hệ tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chú trọng những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo, tỷ trọng nông nghiệp, tỷ lệ đô thị hóa, điện bình quân đầu người,…); những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sỹ trên 1 vạn dân, tỷ lệ lao động qua đào tạo,…); và những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về môi trường (tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỷ lệ giảm mức phát thải khí nhà kính,…).

Cơ cấu và định hướng lại các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp dịch vụ, công nghiệp du lịch, đô thị và môi trường… trở thành các ngành công nghiệp hỗ trợ quan trọng thúc đẩy tạo động lực cho công nghiệp hóa phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Từ những vấn đề nêu trên đòi hỏi công tác QLNN cần đổi mới, nâng cao năng lực QLNN, quản lý xã hội trong giai đoạn hiện nay. Vai trò của các cơ sở ĐTBD cán bộ QLNN, cán bộ, công chức (CBCC) trong hội nhập là một yêu cầu cấp bách để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào những năm hai mươi trong thập niên tới, đồng thời góp phần hoàn thiện và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Đổi mới phương thức ĐTBD nâng cao chất lượng nguồn nhân lực QLNN giai đoạn 2016 – 2020

Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi ngày một cao của tiến trình đổi mới kinh tế và hội nhập quốc tế, việc đổi mới phương thức ĐTBD, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là cực kỳ quan trọng.

Thứ nhất, về mục tiêu nâng cao năng lực ĐTBD CBCC QLNN.

Phát huy nhân tố con người với chất lượng trí tuệ cao, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, nhân cách trung thực, trách nhiệm, nhân ái. Đây là cốt lõi của văn hóa, tạo sức mạnh nội sinh quan trọng của quá trình phát triển.

Trang bị hệ thống thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống tri thức chuyên môn, kiến thức lãnh đạo, quản lý và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ quy hoạch vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và quy hoạch các cấp có trình độ, phẩm chất đạo đức, tận tụy với công vụ và sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. CBCC QLNN phải thực sự là “công bộc của dân”, vì nhân dân phục vụ.

Phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo (GDĐT); đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GDĐT theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới chương trình, nội dung giáo dục; đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập; đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả GDĐT.

Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng KHCN, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.

Thứ hai, về quan điểm ĐTBD cán bộ QLNN.

Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng đã khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ. Công tác quy hoạch, ĐTBD đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có ý nghĩa hết sức quan trọng, là nội dung trọng yếu, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động. Vì vậy, trong công tác ĐTBD cần quán triệt một số quan điểm sau:

(1) Đảng lãnh đạo toàn diện công tác cán bộ, trong đó có công tác ĐTBD cán bộ, nhất là cán bộ cao cấp;

(2) Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải được đào tạo cơ bản. Đối với cán bộ chủ chốt cấp huyện trở lên phải có bằng đại học chuyên môn, bằng cao cấp lý luận chính trị và được cập nhật kiến thức mới thường xuyên;

(3) Gắn bó chặt chẽ quy hoạch cán bộ với ĐTBD cán bộ. Thực hiện chủ động ĐTBD theo quy hoạch cán bộ; hạn chế tối đa tình trạng bổ nhiệm trước, đào tạo sau;

(4) Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia đầu ngành. Đây là một nhiệm vụ lớn, đòi hỏi công tác cán bộ của Đảng phải được đổi mới toàn diện, trong đó công tác ĐTBD, sử dụng cán bộ cần có sự đổi mới về cách thức, nội dung và phương pháp; cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH đất nước và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, về nguyên tắc ĐTBD và sử dụng cán bộ QLNN.

ĐTBD phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị. Phải bảo đảm tính tự chủ của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng cán bộ trong hoạt động ĐTBD. Kết hợp cơ chế phân cấp và cơ chế cạnh tranh trong tổ chức ĐTBD.

Thường xuyên đổi mới chương trình; đổi mới nội dung đào tạo theo sát tình hình mới; đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các đối tượng bồi dưỡng. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học.

Đề cao vai trò tự học và quyền của cán bộ trong việc lựa chọn chương trình bồi dưỡng theo vị trí việc làm. Bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả. Tăng cường thảo luận, khảo sát và tổng kết thực tiễn.

Thứ tư, những nội dung cơ bản ĐTBD cán bộ QLNN.

Nội dung ĐTBD CBCC trong thời gian tới cần xây dựng theo các chương trình phù hợp với các thế hệ lãnh đạo (chương trình đào tạo nâng cao cho thế hệ kế cận; chương trình cho cán bộ lãnh đạo mới; chương trình dành cho cán bộ lãnh đạo đã ở vị trí lãnh đạo lâu năm) và được phân định theo 2 nhóm: ĐTBD ở trong nước và ĐTBD ở nước ngoài.

+ Nội dung ĐTBD ở trong nước, gồm: lý luận chính trị – hành chính; chuyên môn, nghiệp vụ; kiến thức pháp luật; kiến thức, kỹ năng QLNN và quản lý chuyên ngành; tin học, ngoại ngữ, tiếng dân tộc.

+ Nội dung ĐTBD ở ngoài nước, gồm: kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý chuyên ngành; quản lý vùng lãnh thổ, biên giới hải đảo…; kiến thức, kinh nghiệm hội nhập quốc tế.

Thứ năm, các chính sách hỗ trợ ĐTBD.

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nhận thức của cấp ủy đối với công tác ĐTBD trong thời kỳ mới. Các cấp, các ngành xây dựng kế hoạch ĐTBD CBCC cả ở dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện và kịp thời điều chỉnh kế hoạch, giải pháp cụ thể để phù hợp với yêu cầu thực tế.

Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước nói chung và cho từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất – kinh doanh.

Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, cơ sở ĐTBD gắn với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp KHCN trong nhà trường; thí điểm chuyển mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý, đầu tư.

Tăng cường QLNN về nguồn nhân lực, gắn kết cung – cầu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện hỗ trợ dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả.

Rà soát, đánh giá đúng trình độ đội ngũ CBCC và công tác ĐTBD trong thời gian qua. Từ đó xác định nhu cầu đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể theo từng năm và cả nhiệm kỳ. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ và nhu cầu thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương, các cấp ủy xây dựng kế hoạch ĐTBD cán bộ cụ thể, phù hợp với từng chức danh, ngạch, bậc. ĐTBD cán bộ phải gắn với việc bố trí, sử dụng.

Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp.

Trong bối cảnh các động lực tăng trưởng theo chiều rộng dần tiệm cận mức tới hạn, Việt Nam xác định mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, trong đó chú trọng yếu tố thể chế, cơ sở hạ tầng, KHCN và con người.

Để hoàn thành được kế hoạch 2016 – 2020, góp phần thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020, cần phải tăng cường và nâng cao năng lực của nguồn nhân lực, một trong những yếu tố còn có dư địa để đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, trong đó đặc biệt chú trọng ĐTBD đội ngũ CBCC là người trực tiếp thực thi các chính sách, kế hoạch của cơ quan, tổ chức; các mục tiêu quốc gia.

Công tác ĐTBD đội ngũ CBCC về năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân có vai trò quan trọng; là một trong những nhiệm vụ quan trọng và là thách thức đối với các cơ quan của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Việt Nam cần phải nhanh chóng ĐTBD đội ngũ cán bộ lãnh đạo, QLNN không chỉ có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì CNXH; có như vậy, mới có thể có điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế thành công./.

TS. Phạm Xuân Đương
Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương