Kinh nghiệm quốc tế về hỗ trợ chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp công nghiệp

(QLNN) – Kinh nghiệm quốc tế về hỗ trợ chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp công nghiệp là khá đa dạng giữa các quốc gia. Việc xem xét kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp ở một số nước sẽ góp phần giúp cho các nhà hoạch định chính sách nhận diện những yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của doanh nghiệp công nghiệp, để từ đó đúc rút được những bài học phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

 

Ảnh minh họa (Nguồn: http://hvcsnd.edu.vn).
Kinh nghiệm quốc tế về hỗ trợ chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp công nghiệp

– Xây dựng chiến lược công nghiệp quốc gia.

Vào giữa những năm 60 của thế kỷ XX, Đài Loan thực hiện chính sách rất rõ ràng về ngành công nghiệp điện tử và xác định đây là ngành công nghiệp ưu tiên hàng đầu. Theo thời gian, mặc dù chính sách công nghiệp điện tử đã có sự thay đổi nhưng nội dung các công cụ chính sách đều ủng hộ cho quan điểm định hướng mạnh mẽ phát triển công nghiệp điện tử hướng về xuất khẩu.

Thời gian đầu, Đài Loan sử dụng những công cụ như: ưu đãi thuế trực tiếp, giảm thuế cho doanh nghiệp (DN) điện tử. Sau này, để phù hợp với những quy định mới của các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, các công cụ chính sách được thay đổi và điều chỉnh theo hướng ưu đãi cho R&D, hỗ trợ đào tạo nhân lực,… Một số chương trình rất tham vọng cũng được đưa ra như đưa ngành điện tử trở thành một trong hai ngành “nghìn tỷ đô-la”1.

Trái ngược với Đài Loan, mặc dù Phi-líp-pin cũng đề ra chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp điện tử hướng về xuất khẩu nhưng dường như ngành này chưa phát triển như mong muốn do khả năng cạnh tranh của các DN điện tử rất hạn chế. Trong khi Đài Loan tận dụng vai trò của Nhà nước trong việc nâng đỡ và phát triển ngành công nghiệp điện tử thì vai trò của Nhà nước Phi-líp-pin khá mờ nhạt (ngoài việc cung cấp chính sách ưu đãi cho DN FDI tương tự như DN trong nước).

Một mặt, các chính sách của Nhà nước cũng chỉ mang tính chung chung, không có kế hoạch hành động cụ thể; mặt khác, các DN điện tử Phi-líp-pin dường như không mấy quan tâm tới việc hợp tác với Chính phủ và hợp tác với nhau. Các DN nội địa gia công vật liệu bán dẫn cho các DN FDI không cảm thấy cần phải nâng cao năng lực, vì bản thân họ cũng không cạnh tranh trực tiếp với nhau.

– Chính sách tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi.

Trong việc bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi cho DN, hiện có hai xu hướng. Xu hướng thứ nhất là Nhà nước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN không phân biệt quy mô (áp dụng tại các nền kinh tế như: Bắc Mỹ, Mỹ, Ca-na-đa, Xinh-ga-po,…). Xu hướng thứ hai là tập trung vào các chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong khoảng thời gian nhất định và đã có rất nhiều nước và vùng lãnh thổ áp dụng như: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan, Mê-xi-cô, Pê-ru,…

Một số nước (như Trung Quốc) còn ban hành chính sách riêng cho DNNVV như: giảm áp lực cạnh tranh và lũng đoạn từ các công ty lớn bằng việc xác định một số loại sản phẩm, dịch vụ dành riêng cho DNNVV sản xuất, cung ứng và Chính phủ mua bao tiêu sản phẩm để bảo đảm đầu ra cho DN; yêu cầu DN nhà nước hợp tác với DNNVV thông qua tư cách thầu phụ.

– Chính sách tăng khả năng tiếp cận tài chính cho DNNVV.

DNNVV luôn trong tình trạng thiếu vốn do tiềm lực tài chính tương đối hạn chế và có ít tài sản để có thể thế chấp vay vốn từ ngân hàng. Do vậy, các nước thường áp dụng hai nhóm chính sách để hỗ trợ vốn kinh doanh cho DN:

(1) Tăng cường nguồn vốn dành riêng cho các DNNVV thông qua hệ thống ngân hàng; hình thành các loại quỹ như: quỹ đầu tư, quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bảo hiểm; xây dựng các chương trình hay dự án tài chính vi mô để tăng cung tín dụng cho các DN; thực hiện các chương trình ưu đãi thuế.

(2) Tăng số lượng các tài sản để DN có thể thế chấp vay vốn bằng việc đơn giản hóa các thủ tục đăng ký tài sản, cho phép áp dụng các hình thức thế chấp linh hoạt hơn như: thế chấp bằng động sản, trang thiết bị, tài sản đang đầu tư…

Tùy thuộc vào tình hình tài chính, ngân sách mà mỗi nước sử dụng các chính sách hỗ trợ tài chính cho DNNVV phù hợp. Trên thực tế, chính sách hỗ trợ tài chính của các nước rất đa dạng:

+ Vốn mạo hiểm và hỗ trợ xuất khẩu là các công cụ tài chính chủ yếu được áp dụng phổ biến ở nhiều nước. Bắt đầu từ một số quốc gia phát triển như Mỹ, Ca-na-đa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinh-ga-po, hiện nay nhiều nước cũng đã áp dụng công cụ này, như các nước khu vực Mỹ La-tinh (Chi-lê, Pê-ru, Mê-xi-cô,…), các nước và vùng lãnh thổ châu Á (Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Đài Loan, Thái Lan,…).

+ Bảo lãnh tín dụng cũng là một công cụ được nhiều Chính phủ áp dụng nhằm tăng khả năng tiếp cận tài chính cho DNNVV. Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV ở Mỹ, Anh, Ca-na-đa có 100% vốn hoạt động do ngân sách nhà nước cấp, trong khi tỷ lệ này ở vùng lãnh thổ Đài Loan là 61%, Hàn Quốc là 39%, Thái Lan là 27% và Ấn Độ chỉ có 3%.

Cách làm của Trung Quốc có đặc thù hơn khi xây dựng hệ thống các tổ chức tài chính với nguồn vốn hoạt động chủ yếu từ ngân sách nhà nước và từ việc xã hội hóa để bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Đến nay, Trung Quốc đã có hơn 4.000 tổ chức tài chính đứng ra bảo lãnh cho DNNVV vay vốn (hiện vốn vay của các DNNVV tại Trung Quốc chủ yếu thông qua các tổ chức tài chính này)2.

+ Phát triển thị trường trái phiếu DN: nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, Trung Quốc đã tiến hành đẩy mạnh một loạt cải cách liên quan đến hoàn thiện và phát triển thị trường trái phiếu DN, cho phép các DNNVV tiếp cận vốn trên thị trường trái phiếu như cho phép DNNVV tiến hành liên kết với một ngân hàng hay một DN có hạng tín nhiệm cao đứng ra bảo lãnh phát hành trái phiếu hay còn gọi là trái phiếu liên kết (trái phiếu hợp nhất), chính sách này giúp các DNNVV thuận lợi trong tiếp cận được thị trường vốn.

– Chính sách thúc đẩy thị trường dịch vụ phát triển DN. 

Trong thị trường dịch vụ cho DNNVV, các nước thường tập trung phát triển các nhóm dịch vụ như: chính sách hỗ trợ về thông tin; chính sách hỗ trợ về đào tạo; hỗ trợ về công nghệ; hỗ trợ tiếp thị và tiếp cận thị trường.

Phương pháp tiếp cận đến thị trường này cũng đã có nhiều thay đổi. Một số nước, như: In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a hay Ấn Độ trước đây đã sử dụng cách tiếp cận thị trường theo phương pháp truyền thống, đó là Chính phủ đứng ra hoặc thông qua tổ chức kinh doanh phi lợi nhuận cung cấp các dịch vụ bằng nguồn vốn của Chính phủ và các nhà tài trợ.

Mô hình hệ thống dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp của Xinh-ga-po là một ví dụ rất thành công. Nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh cho các DN khi đầu tư ra nước ngoài hoặc tham gia thị trường xuất khẩu, Chính phủ nước này đã thành lập quỹ đào tạo cho các giám đốc, nhà quản lý những kiến thức về các thị trường trọng điểm, như: Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Nga; thành lập Tổ chức phát triển DN, có văn phòng ở hơn 30 nước trên thế giới với trách nhiệm tập hợp và cung cấp thông tin về thị trường, hỗ trợ DN trong nước đi khảo sát ở nước ngoài, hỗ trợ tổ chức các hội nghị, hội thảo ở nước ngoài, thành lập cổng thông tin điện tử cho các giám đốc tư vấn trực tiếp với các chuyên gia kinh tế hàng đầu về kinh nghiệm và các thông lệ quốc tế.

– Chính sách hỗ trợ khác.

+ Hỗ trợ thành lập Tổ chức Nghiên cứu – Phát triển (Consortium R&D): để tiết kiệm được chi phí R&D và cùng nhau đưa công nghệ hiện đại, mới vào sản xuất ô tô, cùng với sự hỗ trợ tích cực của Chính phủ Nhật Bản, các nhà sản xuất ô tô Nhật đã cùng nhau thành lập một Tổ chức R&D động cơ đốt trong thế hệ mới tiết kiệm nhiên liệu. Mục tiêu cụ thể của Tổ chức này là nâng được mức hiệu quả nhiên liệu của động cơ xăng và diesel truyền thống thêm 30% vào năm 2020. Để hỗ trợ việc thành lập Tổ chức R&D, Chính phủ Nhật hỗ trợ 50% ngân sách dự án 9,9 triệu USD3.

+ Đầu những năm 80 thế kỷ XX, Hàn Quốc đã định hướng lĩnh vực ưu tiên phát triển là các ngành công nghiệp chế tạo, hình thành loại hình “thung lũng Silicon Hàn Quốc” và khuyến khích các DNNVV tham gia. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành Luật Xúc tiến DN hỗ trợ, theo đó đã xác định một số ngành công nghiệp cũng như một số sản phẩm trong ngành công nghiệp này là sản phẩm phụ trợ. Luật cũng yêu cầu các DN lớn phải mua các sản phẩm đã chỉ định này từ bên ngoài chứ không được tự sản xuất.

Còn ở Thái Lan, hiện nay, số lượng các doanh nghiệp có khả năng nghiên cứu và triển khai là còn ít và còn tương đối bị động trong việc học hỏi công nghệ. Số DN có sáng tạo/đổi mới là 20%, còn các DN có hoạt động R&D là 15%4. Chính sách thúc đẩy phát triển khoa học – công nghệ của Thái Lan ra đời tương đối muộn. Trong các kế hoạch phát triển đầu tiên từ năm 1958 – 1981, chưa có một mục riêng cho vấn đề khoa học – công nghệ.

Cho đến khi Kế hoạch quốc gia lần thứ 5 về phát triển kinh tế – xã hội (1982 – 1986) mới đề cao tầm quan trọng của khoa học – công nghệ. Tuy nhiên, các chính sách khác của Thái Lan cũng chưa chú trọng đến yếu tố phát triển công nghệ. Chính sách công nghiệp của Thái Lan cũng rất rời rạc, không quan tâm đến sự phát triển của năng lực công nghệ bản địa như là một yếu tố tích hợp trong quá trình công nghiệp hóa.

+ Chính sách thuế: hiện nay ngày càng có nhiều nước xây dựng một chính sách thuế riêng biệt, ưu đãi hơn cho khu vực DNNVV. Ví dụ, năm 2010, Chính phủ Trung Quốc đã nâng mức khởi điểm chịu thuế VAT đối với DN nhỏ là 5.000 NDT – 20.000 NDT, tính theo doanh thu hằng tháng, so với mức chịu thuế trước đây là 2.000 NDT – 5.000 NDT.

Mức tính thuế môn bài đối với DN nhỏ được nâng lên 5.000 NDT – 20.000 NDT, so với mức 1.000 NDT – 5.000 NDT trước kia Chính phủ còn miễn lệ phí ngân hàng đối với DN nhỏ khi vay vốn từ tháng 11/2011 – 10/2014; Các doanh nghiệp mới thành lập và doanh nghiệp trong một số ngành nghề như công nghệ cao, tài chính được miễn thuế trong thời gian từ 3 năm đến 5 năm5.

+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực: ở Hàn Quốc, để luôn bảo đảm cung cấp nguồn nhân lực theo yêu cầu cho DNNVV, Chính phủ đã có chủ trương thay đổi nhận thức của giới lao động về hoạt động và hướng phát triển của DNNVV, bằng các giải pháp hữu hiệu, như: ưu tiên cho sinh viên các trường đại học thực tập tại DNNVV (có cộng thêm điểm); bổ sung vào chương trình đào tạo các môn học về DNNVV; khuyến khích DNNVV tăng cường thu nhận chuyên gia nước ngoài.

Bên cạnh đó, Hàn Quốc thực hiện chính sách hoàn thuế đối với các DNNVV. Chính sách này được thực hiện từ năm 1980, trong đó tập trung vào những doanh nghiệp đầu tư và nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, bao gồm: hoàn lại 15% chi phí đầu tư cho nghiên cứu phát triển và đào tạo nguồn nhân lực; miễn thuế VAT, thuế trước bạ đối với nhà cửa và đất đai phục vụ các mục tiêu nghiên cứu phát triển.

Kinh nghiệm đối với Việt Nam
Đối với các cấp chính quyền:

Thứ nhất, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của DN, bao gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài. Nhà nước chỉ có thể hỗ trợ một phần giúp DN nâng cao khả năng cạnh tranh nhưng Nhà nước không  làm thay DN. Khi hoạch định chính sách, Nhà nước phải xác định rõ những nhân tố nào tác động đến năng lực cạnh tranh của DN và trong đó những nhân tố nào Nhà nước có thể tác động mà vẫn bảo đảm tôn trọng quy luật thị trường.

Thứ hai, Việt Nam cần tập trung vào 3 nhóm chính sách để hỗ trợ DN công nghiệp phát triển, đó là: (1) cải thiện môi trường kinh doanh nói chung, (2) hỗ trợ tài chính, và (3) cung cấp dịch vụ hỗ trợ DN. Mọi sự sáng tạo đều có giá của nó. Nếu không có lợi ích, sẽ không doanh nhân nào đầu tư vào các hoạt động dẫn đến những thay đổi về cơ cấu. Sự đánh đổi ở đây là khi có lợi ích thì sẽ có sự trục lợi, dẫn đến những hoạt động không có năng suất, hoặc tạo ra những nhà độc quyền trong nền kinh tế.

Chính vì vậy, chính sách công nghiệp Việt Nam cần đạt được cả hai mục tiêu: thúc đẩy hay khuyến khích các hoạt động đầu tư vào những ngành công nghiệp mới (thưởng), nhưng đồng thời cũng phải “nhổ rễ” những dự án công nghiệp không hiệu quả (phạt). Đồng thời, cần sử dụng kỷ cương của thị trường làm cơ sở cho những chương trình khuyến khích này.

Bên cạnh đó, việc cải cách DN nhà nước cũng rất quan trọng theo hướng giữ lại những DN có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh. Đây là những lĩnh vực Nhà nước bắt buộc phải tham gia, còn lại, các DN thuộc các lĩnh vực khác thì cổ phần hóa hoặc thoái vốn để bảo đảm DN hoạt động theo quy luật thị trường.

Thứ ba, vai trò của nhà nước trung ương nói chung và địa phương nói riêng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của DN, đặc biệt là như các nước đang phát triển như Việt Nam là rất quan trọng. Ở Việt Nam, PCI là chỉ số đo lường chất lượng điều hành của chính quyền địa phương, góp phần thúc đẩy khả năng cạnh tranh của DN tại địa phương, do vậy, cải thiện PCI là cách mà chính quyền các địa phương cần phải quan tâm để góp phần cải thiện khả năng cạnh tranh của DN tại địa phương.

Để cải thiện chỉ số PCI, kinh nghiệm thành công ở các địa phương cho thấy: cần có sự quyết tâm cao của người đứng đầu và sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị tại địa phương, các cam kết và giải pháp giúp cải thiện môi trường đầu tư, cạnh tranh cần phải nhất quán để DN luôn có lòng tin vào chính quyền.

Chính quyền địa phương cần phải luôn đồng hành cùng DN, coi việc tháo gỡ khó khăn cho DN là công việc ưu tiên hàng đầu giúp DN nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó nâng cao khả năng đóng thuế và tạo việc làm. Nỗ lực của chính quyền cần phải liên tục, luôn có tinh thần cầu tiến, đã làm tốt còn muốn tốt hơn và nếu làm chưa tốt thì cần nhanh chóng tìm giải pháp tháo gỡ.

Đối với doanh nghiệp công nghiệp:

Thứ nhất, trong môi trường hiện nay, cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và là xu hướng tất yếu, bắt buộc đối với DN. Để cạnh tranh thành công, DN cần phải có chiến lược cạnh tranh hợp lý. Khi xây dựng chiến lược cạnh tranh, DN phải xác định mục tiêu chiến lược của DN mình. Từ mục tiêu đó, DN lựa chọn và xây dựng các chính sách liên quan đến hoạt động kinh doanh, bao gồm: thị trường mục tiêu, marketing, tiêu thụ, phân phối, sản xuất, lao động, mua vật tư, nghiên cứu và triển khai, tài chính và kiểm soát, doanh mục sản phẩm.

Thứ hai, thực tế cho thấy, đổi mới sáng tạo và tài sản trí tuệ được xem là động lực quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và khả năng cạnh tranh của DN nói riêng. Tuy nhiên, các DN có hoạt động đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay còn ít ỏi, phản ánh thực trạng đa phần DN chưa nhận thức được vai trò của đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển bền vững của DN.

Đồng thời, một vài DN đã có hoạt động đổi mới nhưng chưa đúng cách và chưa có chiến lược nên chưa thành công. Kinh nghiệm thành công của các DN thế giới cho thấy, bộ phận nghiên cứu và phát triển trong một DN rất quan trọng, cho dù hoạt động trong lĩnh vực nào, từ tiêu dùng (P&G) đến sản xuất (Toyota). Các DN đều đề cao nhiệm vụ R&D để đưa ra những phát kiến, sản phẩm và cải tiến mới phục vụ tốt nhất nhu cầu thị trường.

Thứ ba, các chính sách liên quan đến hoạt động kinh doanh của DN phải được hình thành trên cơ sở đã phân tích 4 yếu tố (trong và ngoài doanh nghiệp) như mặt mạnh và yếu của hãng; giá trị cá nhân của những người thực hiện chính; cơ hội và thách thức từ bên ngoài (kinh tế và kỹ thuật) và những mong muốn xã hội.

Thứ tư, khi xây dựng các chính sách liên quan đến hoạt động kinh doanh cần phải đặt doanh nghiệp trong môi trường của DN, trong đó quan trọng nhất là môi trường ngành (bao gồm: các đối thủ cạnh tranh trong ngành, đối thủ cạnh tranh nhập cuộc, khách hàng, người cung ứng và đối thủ thay thế) và Chính phủ (các chính sách của Chính phủ) có ảnh hưởng, chi phối cạnh tranh ngành./.

Chú thích:
1. Lê Phan và cộng sự. Điều chỉnh chính sách công nghiệp của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài khoa học cấp bộ năm 2015, 2016.
2, 5. Nguyễn Thế Bính. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và bài học cho Việt Nam. Phát triển và Hội nhập, số 12 (22), tháng 9 -10/2013.
3, 4. Nguyễn Thị Nguyệt và cộng sự. Đổi mới đầu tư khoa học và công nghệ để doanh nghiệp Hà Nội phát triển bền vững. Đề tài thành phố Hà Nội (mã số: 01X-10/10-2014-2), 2015.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Minh Ngọc. Hoàn thiện thể chế cạnh trnh góp phần cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Đề tài khoa học cấp bộ, 2016.
2. Lê Duy Bình. Tích lũy vốn tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Luận án tiễn sỹ chuyên ngành Quản lý kinh tế, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 2017.

                                                  PGS.TS. Nguyễn Văn Thành (Bộ Công an)
TS. Đặng Thành Lê (Học viện Hành chính Quốc gia)