Về trách nhiệm bảo đảm quyền của phụ nữ

(QLNN) – Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020 và Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 – 2020 để hiện thực hóa các quyền của phụ nữ. Vì vậy, vị trí, vai trò của phụ nữ Việt Nam ngày càng có những thay đổi cơ bản theo hướng bình đẳng hơn với nam giới.

Quá trình hội nhập và phát triển đang đặt nhân loại và mỗi quốc gia trước nhiều cơ hội và thách thức, trong đó có vấn đề bảo đảm quyền con người của phụ nữ. Phụ nữ chiếm tỷ lệ hơn một nửa dân số thế giới nên mức độ tôn trọng và bảo đảm quyền của phụ nữ tác động sâu sắc đến tiến trình phát triển của mỗi quốc gia và cả nhân loại. Quyền của phụ nữ và trẻ em gái là một bộ phận cấu thành không thể tách rời trong toàn bộ các quyền con người. Điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ (MDGs) mà Việt Nam đã cam kết thực hiện.

Cán bộ dự án của UN Women tại Việt Nam giới thiệu sơ lược về báo cáo nghiên cứu tại Hội thảo: Hướng tới bình đẳng giới tại Việt Nam (Nguồn: http://dangcongsan.vn).

Ý nghĩa của việc trao quyền cho phụ nữ xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của họ trong gia đình và ngoài xã hội. Do đó, trong nhiều thập kỷ qua, bình đẳng giới (BĐG) và bảo đảm quyền của phụ nữ là mục tiêu quan trọng được nhân loại tiến bộ quan tâm thực hiện. Nhà nước Việt Nam đã thể hiện quyết tâm chính trị – việc tôn trọng và bảo đảm quyền của phụ nữ khi tham gia trong hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Công ước CEDAW (Việt Nam tham gia ngày 18/12/1982) và cam kết thực hiện các Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc, các chiến lược, kế hoạch hành động của Liên hiệp quốc và ASEAN về quyền của phụ nữ.

Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Việt Nam đang gặp phải nhiều thách thức, rào cản trên con đường thực hiện mục tiêu BĐG và trao quyền cho phụ nữ. Quá trình toàn cầu hóa đã tác động đến phụ nữ và nam giới theo những cách khác nhau, trong đó phụ nữ phải chịu những tác động tiêu cực nhiều hơn liên quan đến tiếp cận và hưởng thụ quyền trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, lao động việc làm, an sinh xã hội, bạo lực gia đình.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, đến nay, phụ nữ vẫn thuộc nhóm dễ bị tổn thương và chiếm số lượng đông nhất trong nhóm dễ bị tổn thương. Với tư cách là một thành viên của cộng đồng, phụ nữ là chủ thể hưởng thụ quyền và có đầy đủ các quyền như nam giới. Song, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, sự bất BĐG, tệ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vẫn diễn ra khá phổ biến nên cuộc đấu tranh đòi bình quyền thực chất cho phụ nữ (phong trào nữ quyền) đã và đang diễn ra trên khắp hành tinh.

Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo trong việc bảo đảm và thực hiện quyền con người, trong đó có phụ nữ.

Thứ nhất, trong xây dựng pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc tôn trọng, bảo đảm quyền của phụ nữ. Có thể nói, xây dựng Hiến pháp và luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ vì không có pháp luật thì không có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền của phụ nữ, do vậy, hoạt động lập hiến, lập pháp là cơ sở ban đầu, là tiền đề cho các hoạt động bảo đảm quyền cho phụ nữ của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội và của chính bản thân người phụ nữ. Quốc hội đã xây dựng các luật – cơ sở pháp lý cho việc thúc đẩy BĐG, cho việc áp dụng các biện pháp bảo đảm BĐG; đồng thời cũng xây dựng cơ sở cho hoạt động của các thiết chế bảo đảm quyền của phụ nữ.

Việt Nam đã ban hành, sửa đổi và lồng ghép yếu tố giới trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Từ năm 2010 đến nay đã có 40 đạo luật được lồng ghép giới và hàng loạt các văn bản dưới luật được xem xét lồng ghép giới1. Bên cạnh đó, việc thực hiện các chương trình, chính sách, dự án về BĐG hướng tới sự phát triển bền vững của quốc gia vẫn được coi là giải pháp hiện hữu nhằm nâng cao quyền năng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc bảo đảm quyền của phụ nữ nói chung và quyền của phụ nữ nông thôn nói riêng.

Thứ hai, trong hoạt động giám sát thực hiện Hiến pháp, pháp luật về quyền của phụ nữ. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao việc ban hành văn bản pháp luật và thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền của phụ nữ.

Quốc hội đặc biệt quan tâm đến nội dung báo cáo có liên quan vấn đề bảo đảm quyền của phụ nữ. Đối với Chính phủ, hằng năm phải chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội về tình hình thực hiện mục tiêu quốc gia về BĐG. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng thành lập nhiều đoàn trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan ở trung ương và địa phương trong cả nước, qua đó bảo đảm cho các quy định của Hiến pháp và pháp luật về quyền của phụ nữ được thực hiện một cách đầy đủ và kịp thời; quan tâm nâng cao chất lượng công tác tiếp xúc cử tri; tiếp nhận, xem xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, của phụ nữ nói riêng,…

Việc thực thi trách nhiệm bảo đảm quyền của phụ nữ luôn được Chính phủ đặc biệt quan tâm.

Trước hết, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chính sách bảo đảm quyền của phụ nữ cũng luôn được quan tâm trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật do Quốc hội ban hành theo nguyên tắc không phân biệt nam nữ, bảo đảm quyền bình đẳng trong xã hội.

Bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Chính phủ cũng xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là chính sách đối với các vùng nông thôn, dân tộc, miền núi trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, lao động…, tạo tiền đề kinh tế quan trọng bảo đảm quyền của phụ nữ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tận tâm phục vụ nhân dân; xây dựng các chiến lược về công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về BĐG, về quyền của phụ nữ thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Chính phủ còn xây dựng, ban hành chỉ đạo thực hiện và tiến hành đánh giá tổng kết việc thực hiện chiến lược, kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Đến nay, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu đặt ra trong chiến lược, kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ đã đạt, vượt kế hoạch đề ra. Như vậy, có thể thấy với thẩm quyền lập quy, Chính phủ có vai trò hoàn thiện các quy định pháp lý về quyền con người, quyền của phụ nữ. Đây là nhiệm vụ quan trọng bảo đảm cho việc triển khai các quyền của phụ nữ trong thực tiễn một cách hiệu quả nhất.

Hai là, trong tổ chức thực hiện pháp luật về quyền của phụ nữ. Chính phủ phát huy vai trò chỉ đạo thực hiện lồng ghép giới trong văn bản quy phạm pháp luật; trong phát hiện và xử lý vi phạm liên quan đến việc thực hiện các quyền cơ bản của phụ nữ. Với chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động trong nội bộ bộ máy hành chính nhà nước, Chính phủ có vai trò bảo đảm tính hợp hiến của các quy định do các bộ và chính quyền địa phương ban hành. Trong đó, có bảo đảm tính thống nhất trong các quy định về quyền của phụ nữ.

Bên cạnh đó, Chính phủ đưa ra các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền của phụ nữ và áp dụng các chế tài hành chính hữu hiệu. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, địa phương nhằm bảo đảm quyền của phụ nữ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ năng lực, trình độ, tâm huyết với công tác về sự tiến bộ của phụ nữ. Thực hiện công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ… nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu bảo đảm và thúc đẩy quyền của phụ nữ trong giai đoạn mới. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về quyền của phụ nữ.

Chính phủ cũng thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm quyền của phụ nữ. Bên cạnh đó, tập trung chỉ đạo hoạt động của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước, tăng cường các cơ chế bảo đảm quyền phụ nữ.

Tiến bộ nổi bật và đáng ghi nhận nhất trong việc thúc đẩy và bảo đảm quyền của phụ nữ, đặc biệt là ở nông thôn thể hiện trong việc giải quyết các vấn đề an sinh xã hội ở các vùng nông thôn, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn…, trong đó, phụ nữ nông thôn là lực lượng quan trọng được thụ hưởng các thành quả này.

Tại các bộ, ban, ngành, việc thực thi trách nhiệm bảo đảm quyền của phụ nữ luôn được quan tâm, trong đó đã chú trọng những yêu cầu về lồng ghép BĐG trong hoạt động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và ban hành những chính sách đặc thù bảo đảm quyền của phụ nữ. Cụ thể:

Thứ nhất, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về BĐG và Thường trực của Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đã chủ trì, phối hợp với Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các bộ, ngành khác có liên quan xây dựng được hàng chục đầu sản phẩm truyền thông với hàng trăm nghìn sản phẩm về BĐG; xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ tuyên truyền viên về giới và BĐG; phối hợp với Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam nghiên cứu, chỉnh sửa cuốn Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách phù hợp với quy định mới của Luật BĐG và tình hình thực tiễn ở Việt Nam; tổ chức nhiều cuộc tập huấn về giới và kỹ năng lồng ghép giới cho cán bộ làm công tác BĐG ở các bộ, ngành, địa phương.

Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về BĐG, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra lồng ghép nội dung về BĐG tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, thành phố và nhiều đoàn kiểm tra tình hình thực hiện công tác BĐG tại các địa phương, đã có những kiến nghị, chỉ đạo cụ thể để các địa phương thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước về BĐG cũng như thực hiện đúng chính sách, pháp luật về BĐG.

Thứ hai, Bộ Tư pháp với vai trò là cơ quan có chức năng thẩm định các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành đã thực hiện việc đánh giá, lồng ghép vấn đề BĐG; chỉ đạo hướng dẫn, phát huy vai trò của hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở các cấp tham mưu giúp Chính phủ xây dựng nguồn lực phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và luật về BĐG lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia bảo đảm tính đồng bộ, tránh chồng chéo; chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội bồi dưỡng báo cáo viên pháp luật cấp trung ương kiến thức về giới và chính sách, pháp luật về BĐG.

Thứ ba, Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các bộ, ngành khác có liên quan bồi dưỡng kiến thức, pháp luật về giới và BĐG cho những người làm công tác thông tin, truyền thông nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện Đề án thông tin giáo dục, truyền thông về giới và BĐG qua các ấn phẩm, chương trình phát thanh và truyền hình; chỉ đạo hướng dẫn Đài tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và các cơ quan thông tin đại chúng khác thực hiện tuyên truyền phổ biến đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BĐG…

Thứ tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, trong đó có mục riêng về thực hiện BĐG, nâng cao vị thế của phụ nữ. Đồng thời, nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số phát triển giới của quốc gia, tiêu chí phân loại giới tính trong số liệu thống kê nhà nước để làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách về giới.

Thứ năm, Bộ Tài chính ban hành các văn bản về chế độ, chính sách đối với lao động nữ, như chi cho công tác đào tạo lại nghề cho lao động nữ, chi phí tiền lương và phụ cấp cho giáo viên dạy ở nhà trẻ, mẫu giáo do doanh nghiệp tổ chức và quản lý, chi khám sức khỏe cho nữ công nhân viên, chi bồi dưỡng cho lao động nữ khi sinh con, phụ cấp làm thêm giờ cho lao động nữ; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tương ứng với số tiền thực chi thêm cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng, vận tải sử dụng từ 10 – 100 lao động nữ, trong đó số lao động nữ chiếm trên 50% tổng số lao động có mặt thường xuyên hoặc sử dụng thường xuyên trên 10 lao động nữ mà số lao động nữ chiếm trên 30% tổng số lao động có mặt thường xuyên của doanh nghiệp2

Thứ sáu, Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền học tập của phụ nữ, bên cạnh đó, có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng chính sách riêng đối với giáo viên nữ công tác xa nhà, đầu tư xây dựng nhà công vụ cho giáo viên, quan tâm đến việc đầu tư xây dựng các công trình vệ sinh, nguồn nước sạch, mua sắm trang thiết bị dạy học, dụng cụ thể thao,… tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên nữ ở vùng sâu, vùng xa (có chính sách hỗ trợ giáo viên mầm non làm thêm giờ).

Thứ bảy, Bộ Xây dựng đã thực hiện lồng ghép vấn đề BĐG trong việc xây dựng cơ chế, chính sách, kế hoạch phát triển trung hạn, dài hạn, trong xây dựng các dự án đầu tư phát triển hạ tầng, bảo vệ môi trường, vệ sinh đô thị, cấp thoát nước dịch vụ đô thị,…

Thứ tám, Bộ Công an có vai trò quan trọng trong thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm quyền an ninh cá nhân của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội; điều tra các vụ việc vi phạm quyền của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực mà tiêu biểu là bị bạo hành, bị lạm dụng tình dục, bị tra tấn, đánh đập, hành hạ, bị phân biệt đối xử,… để có cơ sở cho việc thực hiện các quy trình tố tụng bảo đảm quyền của phụ nữ.

Năm 2020 là năm cuối cùng để Việt Nam kết thúc thực hiện Chiến lược quốc gia đầu tiên về BĐG và Chính phủ sẽ chuẩn bị xây dựng chiến lược BĐG mới trong giai đoạn 2021 – 2030. Vì vậy, quá trình chuẩn bị trong năm 2019 để đánh giá và rà soát toàn diện việc thực thi BĐG với sự tham gia của tất cả các bên liên quan là đặc biệt quan trọng.

Việt Nam đã quyết tâm trong thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh thông qua việc đẩy mạnh công tác lồng ghép giới trong xây dựng và thực thi luật pháp; ban hành chương trình và đề án cụ thể về BĐG và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới; triển khai mạnh mẽ các hoạt động tuyên truyền về BĐG và nâng cao quyền năng của của phụ nữ trong toàn xã hội. Những nỗ lực này đã giúp cho vai trò và địa vị của phụ nữ Việt Nam ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội đạt 27,1%, cao hơn mức trung bình của cả khu vực lẫn toàn cầu3.

Theo đánh giá của quốc tế, hiện nay, tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp của Việt Nam đạt 31,3% trên tổng số chủ doanh nghiệp. Tỷ lệ tạo việc làm mới cho lao động nữ luôn đạt ở mức hơn 48% trong 5 năm qua4. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn gặp khó khăn và thách thức trong quá trình thực hiện. Bất BĐG còn tồn tại rõ rệt trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; nhiều vụ bạo lực và xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em gái xảy ra có diễn biến hết sức phức tạp; việc xử lý và can thiệp các vụ việc bạo lực này vẫn còn gặp khó khăn và đôi khi chưa được xử lý kịp thời, thỏa đáng gây ra bất bình trong xã hội…

Vì vậy, trong thời gian tới, cần tiếp tục chú trọng giải pháp truyền thông, nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi về BĐG, đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược, toàn diện và cụ thể trên các lĩnh vực như giáo dục và đào tạo, sức khỏe, chống đói nghèo, tạo việc làm và thu nhập để cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống của phụ nữ, ưu tiên các giải pháp về phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái, thực thi quyền con người của phụ nữ./.

Chú thích:
1, 2. Nguyễn Thị Báu. Bình đẳng giới ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia, 2018, tr. 185.
3, 4. Thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ ở Việt Nam. http://tuyengiao.vn, ngày 06/5/2019.

ThS. Nguyễn Phước Nga
 Học viện Chính trị Công an nhân dân