Quản trị nhà nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4

(Quanlynhanuoc.vn) – Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang mở ra nhiều cơ hội, đồng thời đặt ra những thách thức mới đối với mỗi quốc gia. Giáo sư Klaus Schwab, sáng lập viên kiêm Chủ tịch Diễn đàn kinh tế thế giới nhận định: cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang đến “Những thay đổi sâu sắc đến mức chưa bao giờ trong lịch sử lại có một thời điểm con người đứng trước cùng lúc nhiều cơ hội lẫn rủi ro như thế”.

 

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi mỗi quốc gia cần tư duy lại con đường phát triển

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi mỗi quốc gia cần tư duy lại con đường phát triển. Để nắm bắt cơ hội phát triển, để vượt qua những thách thức, quản trị nhà nước với tư cách là chủ thể quản trị quốc gia trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cần phải không ngừng đổi mới, không chỉ ứng phó với những biến động mà khả năng tiên lượng và đưa ra những kịch bản ứng phó với những biến động.

Quản trị nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cần phải có khả năng tạo lập thể chế, khai mở những điều kiện phát triển, tạo động lực mới, xung lực mới cho quá trình phát triển.

Cách mạng công nghiệp lần thứ 4cơ hội, thách thức phát triển kinh tế – xã hội đối với Việt Nam

Thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng lớn là Cách mạng công nghiệp cơ khí chạy bằng hơi nước từ năm 1784, cuộc cách mạng sử dụng điện năng để sản xuất quy mô lớn từ năm 1870 và cuộc cách mạng tự động hóa sản xuất nhờ ứng dụng công nghệ thông tin và điện tử từ năm 1969.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang được tiếp nối với sự tham gia của công nghệ vật lý, kỹ thuật số, sinh học. Ở thế hệ công nghiệp lần thứ 4 này, vạn vật sẽ được kết nối (Internet of Things) và giao thoa thực ảo.

Ở nước ta, Chính phủ khẳng định, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là xu hướng phát triển dựa trên nền tảng số hóa và kết nối, có quy mô tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội, làm thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất trong tương lai, có thể mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời cũng đưa đến thách thức đối với quá trình phát triển.

Có thể nói, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ đem đến cho Việt Nam những cơ hội mới về phát triển. Với “lợi thế người đi sau”, chúng ta có cơ hội và điều kiện để tiếp cận các thành tựu, tiến bộ về khoa học và công nghệ của các quốc gia đi trước, rút ngắn khoảng cách và trình độ công nghệ.

Đối với các doanh nghiệp sẽ có cơ hội hợp tác về công nghệ; đồng thời cũng phải nỗ lực hơn để tạo ra những sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 như vậy sẽ tạo ra cả lực kéo và lực đẩy để công nghiệp Việt Nam phát triển.

Việt Nam có những lợi thế quan trọng trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Đó là sự phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông, y học, toán học… Những nền tảng này là lợi thế quan trọng để Việt Nam không chỉ tiếp thu công nghệ mà còn có khả năng hợp tác về công nghệ để tạo ra sức bật mới trong phát triển.

Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 không chỉ mang đến cơ hội mà còn đưa đến những thách thức to lớn đối với Việt Nam.

Thứ nhất, chúng ta ít nhiều lỡ nhịp trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 3. Nghĩa là bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, trong nhiều ngành, lĩnh vực, chúng ta có xuất phát điểm ở một khoảng cách khá xa với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năng suất lao động và trình độ lao động thấp. Hiệu quả công nghiệp hóa chưa cao dẫn đến quy mô, chất lượng, trình độ công nghệ của ngành Công nghiệp Việt Nam chưa được nâng lên. Chúng ta đang thiếu những tập đoàn, những công ty có năng lực khoa học và công nghệ, năng lực sáng tạo đúng tầm để có thể bắt nhịp ngay vào các lĩnh vực mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Thứ hai, trình độ khoa học và công nghệ của Việt Nam vẫn là một điểm trũng trong phát triển. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016, Việt Nam được xếp hạng chung là 56, trong khi các chỉ số cấu phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại thấp hơn nhiều.

Cụ thể: năng lực hấp thụ công nghệ xếp hạng 121; chuyển giao công nghệ từ FDI: 81; độ sâu của chuỗi giá trị: 109; mức độ phức tạp của quy trình sản xuất: 101; chất lượng của các tổ chức nghiên cứu khoa học: 95; giáo dục và đào tạo ở cấp sau phổ thông: 95. Điều này cho thấy, để cạnh tranh trong giai đoạn tới, việc đầu tư nâng cao trình độ khoa học và công nghệ là một yêu cầu cấp thiết.

Thứ ba, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang đến sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ mới và tự động hóa sẽ làm cho lợi thế về nhân công giá rẻ sẽ sớm qua đi và người lao động Việt Nam sẽ phải đối mặt với bài toán thất nghiệp tạm thời hoặc thất nghiệp lâu dài.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng nhiều thành viên Chính phủ và Quốc hội tại Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam”. Ảnh: Trọng Đạt

Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới cho rằng: các cuộc Cách mạng công nghiệp trước đây thường kéo dài hàng thập kỷ để xây dựng hệ thống đào tạo và tổ chức thị trường lao động cần thiết cho phát triển các kỹ năng mới trên phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên, tốc độ và quy mô của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ khác và không có lựa chọn. Nếu không có những hành động có mục tiêu ngay ngày hôm nay cho những thay đổi ngắn hạn và xây dựng lực lượng lao động có kỹ năng, chính phủ các nước sẽ phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp ngày càng tăng, sự mất bình đẳng và doanh nghiệp sẽ đối mặt với tình trạng thị trường ngày một thu hẹp. Điều này để lại những hệ lụy về khoảng cách giàu nghèo, an sinh xã hội.

Thứ tư, thách thức về quản trị nhà nước cũng là một trong những thách thức lớn nhất đối với nước ta trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này. Những thách thức này được thể hiện trên các phương diện:

1) Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đem đến những thay đổi to lớn chưa từng có về sản xuất, về phát triển kinh tế – xã hội. Các đối tượng quản trị nhà nước mới xuất hiện và những đối tượng quản trị nhà nước cũ cũng có những thay đổi đòi hỏi Nhà nước cần có cách tiếp cận mới và phương thức quản trị mới. Những sản phẩm số hóa xuất hiện ngày càng nhiều, được thừa nhận, được giao dịch đòi hỏi quản trị nhà nước cần phải tạo ra khung pháp lý cần thiết để quản lý. Những giao dịch dựa trên nền tảng số hóa đòi hỏi quản trị nhà nước phải đối mới tư duy và phương thức quản lý. Đó là quản trị thông minh, quản trị trên nên tảng số. Nghĩa là quản trị nhà nước phải ứng dụng công nghệ trong quản lý và đặt mình trong dòng chảy của công nghệ để thực hiện chức năng quản trị quốc gia của mình.

2) Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với nền tảng trí tuệ nhân tạo vạn vật kết nối đòi hỏi quản trị nhà nước phải tăng cường sự phối hợp, sự kết nối.

Vai trò của Chính phủ không chỉ dừng lại ở việc sử dụng các ứng dung công nghệ để quản lý nền kinh tế mà còn phải xây dựng hành lang pháp lý thừa nhận và và công nhận các cơ sở dữ liệu phù hợp, có cơ chế pháp lý cần thiết để tạo ra sự chia sẻ giữa các cá nhân, tổ chức, trong các chủ thể quản trị nhà nước, giữa trung ương và địa phương, giữa quản trị ngành và quản trị lãnh thổ.

Quản trị nhà nước trong điều hiện cắt khúc về thông tin trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ khó khăn hơn rất nhiều trong việc đề ra các quyết sách và đưa ra những phản ứng phù hợp bởi sự vận động nhanh của đối tượng quản lý. Về mặt công nghệ, chính phủ phải thiết lập được cơ sở dữ liệu thông suốt trong rất nhiều lĩnh vực liên quan đến dân số, việc làm, ngành công nghiệp, dịch vụ để có phản ứng kịp thời với những thay đổi trong cơ cấu kinh tế, giải quyết các vấn đề di chuyển lao động và giải quyết thất nghiệp.

Ba là, Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 làm phát sinh những vấn đề mới và làm thay đổi bản chất của những vấn đề cũ đòi hỏi quản trị nhà nước phải nâng tầm để thực hiện chức năng quản trị.

Vấn đề chênh lệch giàu nghèo trong cuộc Cách công nghiệp lần thứ 4 gắn với sự chênh lệch về tri thức, sáng tạo. Những người có tri thức, kỹ năng thấp hơn có xu hướng sẽ bị bỏ rơi xa hơn trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, trong khi đó, những người có thức, sức sáng tạo sẽ có bứt phá ngày càng xa hơn không phải cấp số cộng mà sớm trở thành cấp số nhân. Quản trị nhà nước phải lường trước được điều này để đưa ra những giải pháp, để những người chưa có đủ tri thức và kỹ năng không bị bỏ lại bên lề của quá trình phát triển.

Bốn là, quản trị nhà nước phải thực sự là động lực cho sáng tạo, là chủ thể sáng tạo, kết nối và phát huy sự sáng tạo. Sức mạnh tạo nên sự cạnh tranh trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là sáng tạo thì quản trị nhà nước phải xây dựng được thế hệ công dân 4.0 thực sự là chủ thể sáng tạo.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi quản trị quốc gia phải tạo động lực, tạo ra lớp công dân mới có tri thức và kỹ năng thích ứng được với thay đổi do cuộc Cách mạng công nghiệp mới.

Quản trị nhà nước cần phải có tầm nhìn dài hạn, cần có sự đầu tư xứng đáng cho giáo dục, khoa học và công nghệ. Nếu không định hướng rõ mục tiêu, cách tiếp cận, lộ trình phát triển trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thì nguy lỡ cơ hội phát triển là khó tránh khỏi.

Năm là, quản trị nhà nước đang đối mặt với thách thức về năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức. Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay vẫn còn một khoảng cách so với yêu cầu quản trị quốc gia.

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, vấn đề năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Quản trị nhà nước không thể là quá trình quản trị sáng tạo nếu những cán bộ, công chức, chủ thể quản lý không phải là những chủ thể sáng tạo, năng động, có tầm nhìn, biết nhận ra cơ hội và biết lường trước những thách thức để có thể tham gia có hiệu quả vào quá trình quản trị nhà nước.

Những yêu cầu đặt ra đối với quản trị nhà nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ tạo ra sự thay đổi toàn diện về đối tượng và khách thể của quản trị nhà nước. Quản trị nhà nước sẽ phải quản trị các đối tượng và khách thể quản trị mới trong khi đó các đối tượng và khách thể quản trị cũ cũng có những thay đổi so với giai đoạn trước.

Một bối cảnh mới đang đặt ra với quản trị nhà nước. Vì vậy, quản trị nhà nước cần phải có những đổi mới, tư duy mới trong quản trị quốc gia, cần có cách tiếp cận và phương thức quản trị mới thay vì những cách làm đã được thực hiện ở giai đoạn trước đó.

Thứ nhất, quản trị nhà nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi phải là quản trị thông minh, kết nối, chia sẻ thông tin, chia sẻ tri thức. Quản trị nhà nước thông minh đòi hỏi thể chế thông minh, bộ máy thông minh, nhân lực thông minh, phương thức quản trị thông minh, giám sát thông minh… Nghĩa là quản trị nhà nước phải thực sự đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này.

Các chủ thể quản trị quốc gia phải có khả năng xây dựng, tạo lập thể chế để tạo điều kiện cho phát triển, giải phóng năng lực sản xuất, kết nối doanh nghiệp trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu, phải tạo ra những thể chế để nuôi dưỡng những sáng tạo công nghệ mới. Điều này đòi hỏi quản trị nhà nước phải thực sự nhạy bén với sự phát triển của khu vực và thế giới. Các quyết sách đưa ra dựa trên hệ thống tri thức, cơ sở dữ liệu đủ mạnh và đáng tin cậy.

Thứ hai, quản trị nhà nước cần phải tập trung vào việc tạo ra động lực cho phát triển. Động lực phát triển trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là tri thức, khoa học và công nghệ, sáng tạo và đổi mới. Quản trị nhà nước phải tập trung nguồn lực để tạo ra sự bứt phá trong những lĩnh vực này. Chính vì vậy, nhà nước cần đổi mới chính sách về khoa học và công nghệ chính sách giáo dục và đào tạo phải đối mới đúng hướng hiện đại hóa của nền giáo dục nhằm đào tạo ra đội ngũ lao động có đủ tri thức và kỹ năng thích ứng với thời đại mới.

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này, tri thức sẽ có xu hướng lạc hậu nhanh và việc sáng tạo ra những tri thức mới cũng nhiều hơn và nhanh hơn, quản trị nhà nước phải có những chính sách để giáo dục và đào tạo không bị chậm nhịp với nhịp phát triển tri thức và những tri thức cung cấp không phải tri thức cũ kỹ, lạc hậu mà là tri thức của thời đại, tri thức của tương lai, tri thức để hành động.

Thứ ba, quản trị quốc gia cần năng động hơn, tích cực hơn và chủ động hơn. Mỗi quốc gia đang đứng trước những cơ hội và không ít những thách thức do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang đến. Cơ hội trong cuộc mạng lần này đến với mỗi quốc gia nhưng quốc gia đó có tận dụng được hay không, có nắm bắt để tạo ra động lực phát triển hay không lại là một vấn đề khác.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dường như mang đến nhiều cơ hội phát triển hơn nhưng cơ hội cũng có xu hướng đi qua nhanh hơn, vì vậy, thời gian cho việc nắm bắt và đưa ra quyết sách từ những cơ hội cũng ngắn hơn. Để đạt được các mục tiêu phát triển và phát triển bền vững, mỗi quốc gia phải thực sự chủ động và tích cực trong hành động, nhạy bén trong tư duy và nhanh nhạy trong hành động. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đòi hỏi các chủ thể quản trị nhà nước phải đưa ra quyết định nhanh hơn và phải triển khai thực hiện các quyết định này nhanh hơn, với quyết tâm chính trị cao hơn.

Mỗi quyết sách trong thực hiện đều có những độ trễ nhất định thì quản trị nhà nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 phải giảm tối đa độ trễ ấy làm cho các quyết sách sớm trở thành hiện thực. Quản trị nhà nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 phải có độ trễ bằng không.

Thứ tư, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tạo sức ép lên các chủ thể quản trị nhà nước. Người dân, doanh nghiệp, các tổ chức mong muốn tham gia nhiều hơn vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách, mong muốn các hoạt động của cơ quan công quyền phải được thực hiện nhanh hơn, năng động hơn, minh bạch hơn và lắng nghe nhiều hơn. Điều này đòi hỏi các chủ thể quản trị quốc gia cần phải đổi mới tư duy và phương thức quản trị để thích ứng và đáp ứng được sự kỳ vọng của người dân.

Thứ năm, quản trị nhà nước phải sẵn sàng có những giải pháp giảm sốc từ những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang đến. Vấn đề thất nghiệp sẽ gia tăng khi tự động hóa tăng lên. Những việc làm cũ mất đi và những việc làm mới xuất hiện. Cơ hội việc làm mở ra với một nhóm cá nhân nhưng có thể đóng lại với nhóm cá nhân khác. Khoảng cách giàu nghèo sẽ có xu hướng tăng lên… Những điều này đòi hỏi quản trị nhà nước cần có những giải pháp, quyết đáp cụ thể.

Thứ sáu, quản trị nhà nước phải giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn ra mạnh mẽ đã làm cho biên giới địa lý giữa các quốc gia trở nên “mềm” hơn, dễ vượt qua hơn; mạng internet đã tạo ra một “thế giới ảo” với các xa lộ thông tin toàn cầu, hoàn toàn không còn biên giới ngăn cách… Vấn đề an ninh thông tin, sở hữu trí tuệ gay gắt hơn và quản trị nhà nước phải là chủ thể quan trọng nhất trong việc nhận biết và giải quyết các vấn đề này một cách hiệu quả.

Quản trị nhà nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Để vượt qua những thách thức đặt ra đối với quản trị nhà nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, quản trị nhà nước cần đổi mới toàn diện. Năng lực quản trị nhà nước cần được đặc biệt chú ý với khả năng kết nối, tạo ra đông lực, hợp lực phát triển.

Thứ nhất, cần tạo ra nhận thức đúng về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong hệ thống cơ quan nhà nước, cộng đồng xã hội. Trước hết, các ngành, lĩnh vực, địa phương cần có sự nhận thức đầy đủ về cuộc Cách công nghiệp lần thứ 4 tác động như thế nào đến ngành, lĩnh vực, địa phương mình đang quản lý. Các cơ quan quản lý nhà nước hơn ai hết phải hiểu rõ những thời cơ và thách thức đặt ra trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này. Cần phải tạo ra sự chủ động, sẵn sàng trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong cả hệ thống cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước phải thực sự chủ động trong việc định hướng, dẫn dắt ngành, lĩnh vực trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Thứ hai, cần đổi mới tư duy quản trị quốc gia. Quản trị nhà nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hướng đến mục tiêu nâng cao năng lực đổi mới về trình độ khoa học và công nghệ. Tư duy quản trị dựa vào các nguồn lực và mô hình phát triển truyền thống sẽ gặp nhiều trở ngại và khó khăn khi hội nhập quốc tế. Nếu như trước đây, có thể lấy tài nguyên thiên nhiên, giá nhân công rẻ, thị trường lớn… làm lợi thế cạnh tranh thì khi hội nhập quốc tế các nhân tố đó khó tạo nên sự khác biệt. Vì thế, nếu không có những giải pháp kịp thời và hiệu quả để nâng tầm quản trị của mình thì Việt Nam sẽ rất khó thích ứng được với môi trường quản trị toàn cầu hiện nay và khó nâng cao được năng lực cạnh tranh toàn cầu.

Cần đổi mới tư duy và phương thức quản lý nhà nước dựa trên nền tảng công nghệ kỹ thuật cao, bảo đảm minh bạch hóa hoạt động quản lý nhà nước, xây dựng mô hình chính quyền thông minh, chính quyền điện tử trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn thời gian giải quyết công việc của người dân.

Thứ ba, Nhà nước cần phải thiết lập được thể chế thúc đẩy sự sáng tạo, cần phải cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo, nuôi dưỡng những sáng tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Nhà nước cần phải tập trung thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo quốc gia theo hướng xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo như: có cơ chế tài chính thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp với tôn chỉ doanh nghiệp là trung tâm; đổi mới cơ chế đầu tư, tài trợ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; có chính sách để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; kết nối cộng đồng khoa học và công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng trong nước. Xây dựng các cơ chế, chính sách về thuế, tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển và đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các công nghệ tiên tiến khác.

Thứ tư, nâng cao năng lực quản trị nhà nước với trọng tâm là nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức, những chủ thể quản trị quốc gia. Cán bộ, công chức cần có tư duy quản trị nhà nước mới, tư duy kiến tạo phát triển. Cán bộ, công chức cần phải nhanh nhạy hơn trong nhận diện được yêu cầu của thực tiễn và nhanh chóng đưa ra những kiến nghị về chính sách, pháp luật quản trị nhà nước nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển.

Đội ngũ cán bộ, công chức cần có tư duy quản trị nhà nước mới, tư duy kiến tạo phát triển. Cán bộ, công chức cần phải nhanh nhạy hơn trong nhận diện được yêu cầu của thực tiễn và nhanh chóng đưa ra những kiến nghị về chính sách, pháp luật quản trị nhà nước nhằm tạo ra nhứng điều kiện thuận lợi cho phát triển. Đội ngũ cán bộ, công chức cần có tư duy quản trị nhà nước mới, có khả năng nhận diện và giải quyết các vấn đề mới phát sinh từ tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những vấn đề cũ đã có những thay đổi do cuộc Cách mạng công nghiệp này mang lại.

Sự biến động của đời sống kinh tế – xã hội trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này sẽ nhanh hơn, đa chiều hơn. Người dân mong muốn được thông tin đầy đủ hơn về những biến động của kinh tế, của thị trường. Cán bộ, công chức cần có khả năng tổng hợp thông tin, khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản trị. Cán bộ, công chức trở thành một điểm kết nối tri thức trong xā hội thông tin, trong mạng lưới dữ liệu quản trị nhà nước.

Thứ năm, đổi mới quản trị nhà nước theo hướng năng động, linh hoạt. Các phản ứng chính sách cần phải được thực hiện nhanh hơn cả trong quá trình ban hành và tổ chức thực hiện. Điều quan trọng là các chủ thể quản trị nhà nước cần phải xây dựng và tạo ra sự kết nối các hệ thống cơ sở dữ liệu để có thể đưa ra các quyết định kịp thời. Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, tính liên kết, tính phối hợp liên ngành, liên vùng cần phải được bảo đảm, các chủ thể quản lý cần có khả năng thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ yêu cầu quản trị nhà nước, đồng thời sẵn sàng chia sẻ, trở thành một điểm kết nối trong tổng thể cơ sở dữ liệu quản trị nhà nước.

Thứ sáu, xây dựng mô hình quản trị quốc gia năng động dựa trên nền tảng công nghệ, tăng cường sự đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, người dân. Điều này cho phép cơ quan quản lý nhà nước có thông tin đầy đủ hơn về hiện trạng lĩnh vực quản lý, điều hành, những mong muốn, kỳ vọng của cộng đồng xã hội, cộng đồng doanh nghiệp để đưa ra những chính sách phù hợp hơn, khả thi hơn, khắc phục độ trễ của chính sách không đáng có.

Thứ bảy, xây dựng Chính phủ điện tử với việc áp dụng trí tuệ nhân tạo nhằm tạo ra khả năng kết nối, khả năng thông tin thời gian thực đáp ứng yêu cầu về thông tin của tổ chức, công dân. Cùng với xây dựng Chính phủ điện tử, Nhà nước cần định hướng, tạo điều kiện để đội ngũ doanh nhân, công dân có năng lực về công nghệ thông tin, trở thành những doanh nhân điện tử, công dân điện tử trong cuộc cách mạng số.

Tài liệu tham khảo:
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Hội thảo khoa học “Cách mạng công nghiệp lần thứ 4-Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam”.
2. Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ: Về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

TS. Đặng Xuân Hoan
Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia