Việt Nam có thể đi đầu trong một số lĩnh vực

(Quanlynhanuoc.vn) – Thủ tướng nêu rõ: Trong bối cảnh thế giới hiện nay, Việt Nam chưa thể trong nhóm đứng đầu thế giới về thu nhập, nhưng hoàn toàn có thể đi đầu trong một số ngành và lĩnh vực mới khai phá; đồng thời tin tưởng, những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc sẽ giúp làm nên thành công.

Sáng 28/12, Hội nghị Chính phủ với các địa phương chính thức khai mạc với quy mô toàn quốc. Hội nghị đánh giá, tổng kết lại 1 năm đã qua, nhìn lại cả chặng đường 5 năm và đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để hoàn thành các mục tiêu phát triển trong năm 2021 cũng như các năm tiếp theo.

Tới dự Hội nghị có Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình; Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an; Vương Đình Huệ, Bí thư Thành ủy Hà Nội; Nguyễn Thiện Nhân, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội TP. Hồ Chí Minh cùng lãnh đạo MTTQ Việt Nam, các ban, bộ, ngành Trung ương dự Hội nghị.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng và các đại biểu tới dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương. – Ảnh: VGP.
Việt Nam có thể đi đầu trong một số lĩnh vực

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, sự kiện không chỉ tổng kết năm 2020 mà còn nhìn lại cả 4 năm trước đó.

5 năm trước, khi Chính phủ bắt tay vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, nền kinh tế đối mặt nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước. Sau 5 năm nhìn lại, đất nước ta thực sự tốt đẹp hơn bao giờ, tăng trưởng cao, mọi người dân được hưởng thành quả phát triển, niềm tin được củng cố… Chúng ta đảm nhận nhiều vai trò quan trọng trên trường quốc tế và khu vực, tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế quan trọng.

Riêng năm 2020, dưới tác động của COVID-19, nhiều nước rơi vào suy thoái, Việt Nam là quốc gia hiếm hoi duy trì tăng trưởng dương, dịch bệnh được kiểm soát, bảo đảm an sinh xã hội. Đến thời điểm này, chúng ta đã đạt được mục tiêu kép trong phòng chống COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế. Công tác xây dựng Đảng, phòng chống tham nhũng cũng được Đảng, Nhà nước đẩy mạnh…

Nhấn mạnh thành công không chỉ được đo bằng những gì đạt được mà còn bởi những trở ngại đã vượt qua, Thủ tướng cho rằng, với những thành quả đặc biệt đó, năm 2020 có thể được xem là năm thành công nhất trong 5 năm nhiệm kỳ của chúng ta về ý chí và tinh thần vượt khó vươn lên. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, tương lai đất nước, cơ đồ dân tộc không ngừng được củng cố và vun đắp. Nó cho thấy, những lúc khó khăn nhất, gai góc nhất là những dịp bản sắc của tinh thần dân tộc ta lại trỗi dây, đó chính là sự đoàn kết, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Bằng quyết tâm của toàn bộ hệ thống chính trị, sự đồng lòng của người dân và doanh nghiệp, chúng ta đã cùng nhau tạo ra hơn 1.200 tỷ USD GDP trong gần 5 năm, trên một nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định. Tạp chí The Economics tháng 8 năm 2020 đã xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, với tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8% một năm giai đoạn 2016-2019, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất.

Thủ tướng nhấn mạnh, tăng trưởng kinh tế cả nước có sự đóng góp từ tăng trưởng ấn tượng của nhiều địa phương mới nổi, đây là nhân tố truyền cảm hứng cho nhiều địa phương khác vượt lên chính mình. Tăng trưởng cũng không phụ thuộc nhiều vào riêng thành phần kinh tế nào.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc  phát biểu khai mạc Hội nghị.

Cùng với đó, Việt Nam không chỉ thành công về kinh tế mà còn đạt nhiều tiến bộ nhanh chóng về xã hội. Việt Nam đã tạo ra hơn 8 triệu việc làm, thu nhập và mức sống người dân ngày càng tăng lên…

Tuy nhiên, Thủ tướng cho biết, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Chính phủ nhận diện những hạn chế, khó khăn, như: Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, đời sống của một bộ phận người dân chưa được bảo đảm, mặt bằng thu nhập còn thấp, khu vực doanh nghiệp nhìn chung còn khó khăn, sức cạnh tranh thấp, những nút thắt về hạ tầng, nguồn nhân lực… Những vấn đề sát sườn với đời sống người dân như tai nạn giao thông, an ninh trật tự, tội phạm xã hội, ma túy, cờ bạc, cho vay nặng lãi, nhiều giá trị xã hội bị suy giảm; nhất là tình trạng suy nghĩ lệch lạc, mất định hướng giá trị, sống thiếu hoài bão, thiếu lý tưởng trong một bộ phận giới trẻ. Ô nhiễm môi trường và tác động do biến đổi khí hậu đang ngày càng hiện rõ.

Thủ tướng nêu rõ, trong bối cảnh thế giới và thời đại hiện nay, Việt Nam chưa thể trong nhóm đứng đầu thế giới về thu nhập, nhưng hoàn toàn có thể đi đầu trong một số ngành và lĩnh vực mới khai phá. Chúng ta cần sớm nhận ra cơ hội khi người khác chỉ thấy rủi ro.

Thủ tướng tin tưởng, những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc sẽ giúp làm nên thành công, như cha ông ta đã đứng vững trước mọi thiên tai, đẩy lùi mọi cuộc xâm lược, giúp chúng ta đạt được những thắng lợi trong 35 năm đổi mới.

Trong năm 2021, tình hình phát triển kinh tế – xã hội có nhiều thách thức, song Chính phủ quyết tâm điều hành để nâng tăng trưởng GDP thêm 0,5 điểm phần trăm trong năm 2021.

Thủ tướng nhấn mạnh, hơn lúc nào hết, đây là thời điểm chúng ta cần phải củng cố niềm tin vào những giá trị truyền thống, tin vào bản lĩnh, khí phách, sự gan góc của một dân tộc anh hùng. Nền kinh tế chúng ta, đất nước chúng ta đang tiến nhanh về phía trước với tốc độ mà cách đây ít năm một số đánh giá cho rằng điều này khó có thể xảy ra và chắc chắn rằng dân tộc chúng ta sẽ tiếp tục tiến nhanh hơn nữa về phía trước như tinh thần dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng sắp khai mạc vào ngày 25/01/2021.

Đạt nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực

Báo cáo tóm tắt về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2020 và 5 năm 2016 – 2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cho biết: Năm 2020, trước diễn biến phức tạp, nghiêm trọng của đại dịch COVID-19, hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều kết luận, nghị quyết, chỉ thị và chỉ đạo các cấp, các ngành quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép”: Vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, vừa tập trung phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân.

Hội nghị Chính phủ với các địa phương chính thức khai mạc với quy mô toàn quốc.

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trong năm 2020 và 5 năm 2016 – 2020. Cụ thể:

Cả nước đã tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Trong khi đại dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp trên toàn cầu, chúng ta đã sớm kiểm soát, khống chế được dịch bệnh. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016 – 2019 bình quân 6,8%/năm. Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng tăng trưởng cả năm 2020 đạt 2,91%; là mức tăng trưởng cao hàng đầu thế giới. Quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015; GDP bình quân đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD. Năng suất lao động được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016 – 2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 – 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn dưới 4% trong giai đoạn 2016 – 2020. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2020 ước đạt 543,9 tỷ USD, xuất siêu 5 năm liên tiếp (năm 2020 ước đạt 19,1 tỷ USD).

Các đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt những kết quả tích cực. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2020 xếp thứ 42/131, đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập.

Bên cạnh đó, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt nhiều kết  quả. Vốn đầu tư công được tập trung cho những dự án cấp bách, trọng điểm, có tính kết nối, lan toả cao; giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo quyết liệt; vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2020 đạt cao nhất trong giai đoạn 2011 – 2020. Việc sắp xếp lại, cổ phần hoá, thoái vốn thực chất hơn; hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp Nhà nước được nâng lên. 12 dự án yếu kém của ngành Công thương được xử lý và đạt kết quả bước đầu, một số dự án đã có lãi và giảm lỗ lũy kế; đưa 3 dự án ra khỏi danh sách theo dõi, xử lý của Ban chỉ đạo.

Xây dựng nông thôn mới hoàn thành trước thời hạn gần 2 năm; đến nay đã có khoảng 63% xã đạt chuẩn, vượt xa mục tiêu đề ra (50%); xuất khẩu nông sản năm 2020 ước đạt trên 41 tỷ USD. Nhiều ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học công nghệ cao phát triển nhanh.

Phát triển văn hoá, xã hội đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính sách đối với người có công với cách mạng được quan tâm thực hiện, đời sống người có công được nâng lên; đến nay có gần 1,4 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội gấp hơn 1,3 lần so với năm 2015, chiếm gần 33% lực lượng lao động. Hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở được củng cố; triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám chữa bệnh trực tuyến, từ xa, kết nối gần 30 bệnh viện tuyến trên với 1.200 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 75% năm 2015 lên 90,85% năm 2020. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển khai; chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học tiếp tục được nâng lên. Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam có những chuyển biến tích cực; các giá trị tốt đẹp của dân tộc được phát huy. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình,  bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được đẩy mạnh; thể thao thành tích cao có  bước tiến bộ. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu có những chuyển biến rõ nét.

Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính chuyển biến tích cực, môi trường kinh doanh được cải thiện; phòng chống tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được kiện toàn tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam được cải thiện đáng kể, tăng từ xếp hạng 88/183 năm 2010 lên xếp hạng 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ năm 2019.

Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng và có chuyển biến tốt; đã điều tra, truy tố, đưa ra xét xử nghiêm minh nhiều vụ án kinh tế,  tham nhũng nghiêm trọng; công khai kết luận thanh tra, trong đó có những những vụ việc phức tạp được dư luận, xã hội quan tâm như AVG, Khu đô thị mới Thủ Thiêm,…

Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững; đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng.

Bên cạnh kết quả đạt được, nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập. Tăng trưởng kinh tế năm 2020 không đạt kế hoạch đề ra do tác động của đại dịch COVID-19, dẫn đến tăng trưởng bình quân 5 năm 2016 – 2020 không đạt mục tiêu. Khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc; năng lực cạnh tranh và tính tự chủ còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu. Đào tạo nguồn nhân lực còn bất cập về cơ cấu, số lượng và chất lượng. Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực chính thúc đẩy năng suất lao động, năng lực cạnh tranh. Cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao. Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, khoảng cách phát triển giữa các vùng chậm được thu hẹp. Cải cách hành chính một số lĩnh vực còn bất cập; sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế còn khó khăn. Kỷ luật, kỷ cương trong một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm. Còn tình trạng thiếu quyết liệt, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình tội phạm trên một số lĩnh vực, địa bàn diễn biến phức tạp. Tham nhũng, lãng phí ở một số nơi còn chưa được phát hiện, xử lý kịp thời. Khiếu kiện về đất đai còn những vụ việc phức tạp, kéo dài…

Những điểm nhấn trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh trình bày Báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020 – Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Quán triệt phương châm “Xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân”, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động, tích cực đổi mới, cải cách mạnh mẽ và linh hoạt, sáng tạo, quyết liệt trong điều hành, vừa thực hiện hiệu quả các mục tiêu trọng tâm, vừa xử lý kịp thời những vấn đề đột xuất, phát sinh. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định đó là quan điểm xuyên suốt trong công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ năm 2020 và giai đoạn 2016-2020.

Cụ thể, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động đánh giá đúng tình hình, coi phòng, chống dịch COVID-19 là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng; đề ra các giải pháp kịp thời, kiên quyết, sớm hơn và cao hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới và phù hợp với phương châm “4 tại chỗ”. Chính phủ chú trọng thực hiện chiến lược ngăn chặn dịch từ bên ngoài, khoanh vùng dập dịch triệt để, điều trị hiệu quả, tự chủ trong sản xuất vật tự, trang thiết bị y tế và phát triển vaccine COVID-19. Đã huy động, phát huy sức mạnh đoàn kết của cả hệ thống chính trị, cộng đồng, đặc biệt là sự cống hiến, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm của đội ngũ y bác sĩ, lực lượng quân đội, công an, tạo nên sức mạnh tổng hợp ngăn chặn thành công dịch COVID-19.

Thủ tướng Chính phủ đã quán triệt chủ trương “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”, “kiên quyết đóng cửa rừng tự nhiên”, đồng thời tăng cường công tác giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề môi trường. Đặc biệt, Chính phủ đã chỉ đạo khắc phục sự cố môi trường tại 4 tỉnh ven biển miền Trung; tăng cường quản lý chất thải rắn, ngăn chặn rác thải nhựa. Chính phủ chuyển sang chủ động trong phòng ngừa, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; triển khai sớm các giải pháp cấp bách kiểm soát hạn hán, xâm nhập mặt, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long nên diện tích lúa bị thiệt hại năm 2020 chỉ bằng 9.6% so với năm 2016. Tập trung chỉ đạo với phương châm “4 tại chỗ” để chủ động ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn tại các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; rà soát, cập nhật các kịch bản phòng, chống thiên tai, lũ lụt, sạt lở đất; kịp thời ban hành chính sách hỗ trợ khắc phục thiên tai.

Trước tác động của dịch COVID-19, với tinh thần nhất quán “không để ai bị bỏ lại phía sau”, Chính phủ đã kịp thời báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua và triển khai nhiều giải pháp, chính sách hỗ trợ vượt trội, chưa từng có tiền lệ về tài khóa, tín dụng, bảo hiểm xã hội, giảm giá điện, giá cước viễn thông… Tăng cường bảo hộ công dân, tổ chức đón hơn 75,000 người Việt Nam về nước an toàn. Giai đoạn 2016-2020, các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, giảm nghèo được quan tâm thực hiện đầy đủ, triển khai tích cực Đề án và chủ trương đầu tư phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ luôn kiên định, nhất quán mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, điều hành đồng bộ, linh hoạt các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là phối hợp hài hòa chính sách tài khóa và tiền tệ. Theo dõi sát tình hình, chủ động xây dựng, cập nhật kịch bản tăng trưởng và phương án, giải pháp kịp thời, phù hợp, đặc biệt là kịch bản phục hồi kinh tế năm 2020 để tận dụng tốt thời cơ, giảm thiểu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo đổi mới toàn diện công tác giao, điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công; đề xuất Quốc hội cho phép Chính phủ linh hoạt trong việc giao vốn, điều chuyển vốn đầu tư công. Riêng năm 2020, Chính phủ đã tổ chức 3 hội nghị trực tuyến toàn quốc, thành lập 7 đoàn công tác kiểm tra, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Khơi thông xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm nghiêm trọng; thúc đẩy phát triển bền vững thị trường nội địa; chỉ đạo cơ cấu lại thị trường, mặt hàng xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường; chỉ đạo kịp thời tháo gỡ khó khăn phát sinh, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới thông qua các hiệp định thương mại tự do, qua đó duy trì mức xuất siêu tăng dần qua từng năm.

Trước tác động kép thiên tai và dịch bệnh, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các giải pháp ổn định sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu; hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 trước gần 2 năm. Tập trung tháo gỡ khó khăn, khôi phục chuỗi cung ứng, phát triển công nghiệp hỗ trợ, chế biến, tạo động lực phục hồi, phát triển kinh tế; thường xuyên gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp nhằm thóa gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh; tập trung hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể; đẩy mạnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh dịch COVID-19, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến để bàn các giải pháp cùng doanh nghiệp nỗ lực vượt thách thức, đón thời cơ, phục hồi nền kinh tế, duy trì tinh thần hứng khởi kinh doanh trong toàn xã hội. Chính phủ cũng đã khẩn trương rà soát, hoàn thiện việc lập quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; đánh giá thực trạng các vùng kinh tế trọng điểm, đề ra giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách điều phối liên kết vùng; chấn chỉnh công tác quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị theo hướng tăng trưởng xanh, đô thị thông minh.

Năm năm vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xác định công tác xây dựng pháp luật là khâu đột phá; đã đổi mới tư duy xây dựng chính sách, pháp luật theo hướng kiến tạo, tạo hành lang, khuyến khích phát triển, một văn bản sửa nhiều văn bản, cắt giảm tối đa văn bản quy định chi tiết, ban hành văn bản mới bãi bỏ ít nhất một văn bản cũ. Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành và đã ban hành theo thẩm quyền hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác rà soát mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật để báo cáo Quốc hội; lần đầu tiên tổ chức Hội nghị toàn quốc đánh giá toàn diện công tác xây dựng, thực thi pháp luật giai đoạn 2016-2020. Thực hiện nghiêm túc chương trình, kế hoạch công tác trọng tâm của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng; chỉ đạo tăng cường thanh tra, kiểm tra các lĩnh vực có nguy cơ phát sinh tham nhũng; phát hiện xử lý nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng lớn tiền và tài sản. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác đặc biệt và đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân; xử lý hiệu quả các tranh chấp đầu tư quốc tế.

Với phương châm lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, giai đoạn 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chú trọng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, cải thiện môi trường kinh doanh; thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, giảm giấy tờ; đổi mới công tác điều hành dựa trên nền tảng số. Tiếp tục phát huy hiệu quả của các hệ thống thông tin chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân và doanh nghiệp; đã ban hành 71 văn bản quy phạm pháp luật để cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thủ tục kiểm tra chuyên ngành. Tập trung hoàn thiện khung pháp lý; chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, giảm bớt chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với tinh thần tinh giản biên chế; đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và Tổ công tác về kiểm tra công vụ, qua đó kỷ luật công vụ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao có chuyển biến tích cực.

Chính phủ chú trọng phát huy, lan tỏa mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh đoàn kết dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc thông qua các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền nhân dịp kỷ niệm ngày lễ lớn của đất nước và trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật công nghệ trong khám, chữa bệnh; nâng cao năng lực y tế cơ sở.

Chính phủ chủ động nắm chắc tình hình, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại quan trọng của đất nước, nhất là Đại hội đảng bộ các cấp, các Hội nghị cấp cao ASEAN… Việt Nam đã tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực và quốc tế quan trọng, nổi bật là việc tổ chức thành công Năm APEC Việt Nam 2017, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN 2018, đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ, tổ chức thành công cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ-Triều lần thứ hai và đặc biệt là vai trò Chủ tịch ASEAN 2020. Tích cực thúc đẩy đàm phán, ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại, trong đó có các hiệp định tiêu chuẩn cao, thị trường rộng lớn như CPTPP, EVFTA, RCEP. Bên cạnh những mặt trên, Chính phủ cũng thẳng thắn nhìn nhận kỷ cương, kỷ luật hành chính, đổi mới lề lối làm việc trong một số cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu. Việc tổ chức thực hiện pháp luật còn chậm; trách nhiệm của một số bộ, ngành trong phối hợp xử lý công việc chưa cao, còn thiếu quyết liệt, chưa chủ động tìm hướng đi mới…

Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2021
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 01 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Về các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trước hết, triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ để phục vụ tổ chức thành công Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV và HĐND các cấp. Xây dựng, ban hành ngay các chương trình hành động, kế hoạch công tác để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng và các nghị quyết của Đảng, Quốc hội.

Tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế. Đẩy nhanh việc nghiên cứu, hợp tác quốc tế trong phát triển vaccine và có giải pháp để người dân tiếp cận vaccine phòng dịch COVID-19 sớm nhất. Kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn hiệu quả nguồn bệnh xâm nhập từ bên ngoài, xem xét mở lại các đường bay thương mại quốc tế khi điều kiện cho phép. Chủ động bố trí nguồn lực, triển khai kịp thời, phù hợp các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, người lao động bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo thuận lợi cho phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững. Điều hành chủ động, phối hợp chặt chẽ các chính sách, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.

Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, phát triển nền kinh tế số, xã hội số. Bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng. Nâng cao chất lượng và tích hợp cung cấp dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia. Phát triển mạnh mẽ kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, thúc đẩy khởi nghiệp, sáng tạo.

Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển; đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch, công tác chuẩn bị đầu tư và triển khai các dự án kết cấu hạ tầng KTXH trọng điểm, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, năng lượng. Phát triển kinh tế biển; tăng cường liên kết vùng; quản lý và phát triển đô thị. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và bố trí nguồn lực phù hợp cho xây dựng nông thôn mới.

Nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, có giải pháp thu hút, bồi dưỡng nhân tài. Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Phát huy vai trò hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo.

Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế. Nâng cao trình độ, thành tích của thể thao thành tích cao. Tổ chức tốt việc đăng cai Sea Games 31 và ASEAN Para Games 31. Bảo đảm an ninh y tế, an toàn thực phẩm, chất lượng tiêm chủng, khám, chữa bệnh. Phát triển hệ thống chính sách xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững; bảo đảm việc làm, thu nhập, an sinh xã hội cho người dân; thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách về giảm nghèo, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng và trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội. Triển khai thực hiện kịp thời các nhiệm vụ về công tác dân tộc trong tình hình mới.

Quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị. Tăng cường phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện có hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển đất nước. Tăng cường các nguồn lực thực hiện mục tiêu hiện đại hóa quân đội, bảo đảm quốc phòng, an ninh kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là trên các tuyến biên giới, biển đảo, địa bàn chiến lược, trọng điểm. Bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, sự kiện quan trọng của đất nước.

Đẩy mạnh thông tin truyền thông, tạo niềm tin, đồng thuận xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; tăng cường phối hợp công tác giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị.

Về tổ chức thực hiện, dự thảo Nghị quyết yêu cầu bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải cụ thể hoá Nghị quyết bằng các chương trình hành động cụ thể của bộ, ngành, địa phương mình để tổ chức thực hiện.

Các bộ, ngành phải làm tốt công tác tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cũng như thực hiện tốt công tác quản lý ngành, lĩnh vực để bảo đảm thực hiện thành công Nghị quyết của Chính phủ về phát triển KTXH, NSNN năm 2021.

Cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 02 của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Nghị quyết 02/CP năm 2020 được xây dựng dựa trên 7 bộ chỉ số, với trên 200 tiêu chí đo lường chi tiết, liên quan tới hầu hết các lĩnh vực, các ngành, các cấp và có phân công cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm cho từng nhóm tiêu chí; thậm chí từng tiêu chí quan trọng.

Các Nghị quyết 19/CP và sau này là Nghị quyết 02/CP của Chính phủ đã nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ trung ương tới địa phương; sự hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp, sự tham gia của toàn xã hội. Qua đó đã góp phần cải thiện thêm một bước thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ được nhiều rào cản, khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp và người dân.

Phần lớn các chỉ số được đánh giá định kỳ 1 năm hoặc 2 năm của các tổ chức quốc tế đều ghi nhận sự tiến bộ rõ về điểm số tuyệt đối và cải thiện thứ hạng của Việt Nam.

Trực tiếp nhất là thứ hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 20 bậc, từ thứ 90 năm 2015 lên thứ 70 năm 2019. Năng lực cạnh tranh quốc gia tăng hàng năm đều được tăng hạng, năm 2017 đứng thứ 55. Từ năm 2018, xếp hạng năng lực cạnh tranh được đổi thành năng lực cạnh tranh 4.0 với các tiêu chí được điều chỉnh cho phù hợp với mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất mới trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam xếp hạng 77. Một năm sau vị trí của chúng ta đã tăng 10 bậc lên thứ 67. Năng lực cạnh tranh du lịch tăng 12 bậc, từ thứ 75 năm 2015 lên thứ 63 năm 2019. Xếp hạng Hiệu quả logistics tăng 25 bậc, từ thứ 64 năm 2016 lên thứ 39. Xếp hạng Đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng 17 bậc từ thứ 59 năm 2016 lên thứ 42 năm 2020.

Trong các bộ chỉ số, các bảng xếp hạng quốc tế đó, có không ít chỉ số, tiêu chí cụ thể của nước ta ghi nhận những tiến bộ vượt bậc như: tiếp cận điện năng tăng 81 bậc, từ thứ 108 (năm 2015) lên thứ 27 (năm 2019). Nộp thuế và bảo hiểm xã hội tăng 59 bậc, từ thứ 168 (năm 2015) lên thứ 109 (năm 2019). Ứng dụng công nghệ thông tin tăng 54 bậc, từ thứ 95 (năm 2015) lên thứ 41 (năm 2019)…

Phó Thủ tướng cho biết: Đặc biệt, xếp hạng về phát triển bền vững tăng 34 bậc từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020. Đây là bộ chỉ số được Liên hợp quốc xây dựng, đánh giá dựa trên các tiêu chí bám sát 17 nhóm mục tiêu phát triển bền vững (với 169 mục tiêu cụ thể). Các mục tiêu này về cơ bản rất phù hợp với các đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta. Việc Việt Nam được xếp hạng 49 trong khi thu nhập bình quân đầu người còn ở hạng ngoài 100 là minh chứng cụ thể cho tính ưu việt của chế độ của Việt Nam.

“Việc một số chỉ số như giáo dục phổ thông, đổi mới sáng tạo của Việt Nam được xếp hạng trong nhóm 50 quốc gia và vùng lãnh thổ hàng đầu, càng cho thấy ý chí vươn lên, hướng tới tương lai và sức sáng tạo của nhân dân ta, dân tộc ta”, Phó Thủ tướng nói.

Cộng đồng doanh nghiệp trong nước cũng ghi nhận tích cực những kết quả, tiến bộ trong thực hiện các Nghị quyết này. Theo kết quả điều tra 10.000 doanh nghiệp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy: 81,3% doanh nghiệp cho biết “cán bộ nhà nước giải quyết công việc hiệu quả” (tỷ lệ này năm 2016 là 67,4%). 73,6% doanh nghiệp nhận thấy “cán bộ nhà nước thân thiện” trong quá trình giải quyết thủ tục (năm 2016 chỉ là 59%). 57,5% doanh nghiệp đánh giá môi trường kinh doanh thuận lợi (năm 2017 là 51,7%). 53,6% doanh nghiệp cho biết mức chi trả không chính thức giảm rõ rệt (năm 2016 là 59,3%).

Bên cạnh những kết quả quan trọng, đáng khích lệ đó, vẫn còn không ít chỉ tiêu cụ thể mà điểm tuyệt đối và thứ hạng của Việt Nam vẫn còn thấp và hầu như không được cải thiện về thứ bậc như: giải quyết phá sản doanh nghiệp (đứng thứ 122); rào cản phi thuế quan (121); bảo vệ hệ sinh thái bền vững (110); đăng ký tài sản (106); bảo vệ sở hữu trí tuệ  (105); kết nối hạ tầng đường bộ (104).

“Thực tế những năm qua cho thấy bộ, ngành nào chủ động, quyết tâm thì các chỉ số được cải thiện rõ ràng hơn (điển hình là điện lực, bảo hiểm xã hội, xây dựng).

Tới đây, việc cải thiện vị trí càng khó và đòi hỏi nỗ lực cao hơn vì các quốc gia, nền kinh tế khác cũng rất chú trọng công tác này. Mặt khác, nhiều tiêu chí, chỉ số không chỉ đơn thuần liên quan tới quy định, thủ tục hành chính có thể nhận diện, sửa đổi hoặc bãi bỏ ngay mà còn phải sửa luật và ngày càng có nhiều chỉ số phải nỗ lực liên tục trong một số năm mới có thể cải thiện được, nhất là liên quan tới hạ tầng, nhân lực và các yếu tố xã hội”, Phó Thủ tướng nhận xét.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh: Năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, việc đánh giá xếp hạng của các tổ chức quốc tế có những thay đổi đáng kể và nhiều bảng xếp hạng không được công bố. Trong nước, thực hiện “mục tiêu kép”, các nỗ lực thực hiện Nghị quyết 02/CP không hề giảm. Thậm chí nhiều nhiệm vụ đã được thúc đẩy mạnh mẽ hơn (như dịch vụ công trực tuyến, thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt…).

Từ cuối năm 2019, xác định năm 2021 sẽ là năm bắt đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025 nên Nghị quyết 02/CP năm 2020 cũng đã đề ra các nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu cụ thể cho năm 2020 và định hướng cho năm 2021. Nghị quyết 02/2021 được xây dựng ngắn gọn hơn rất nhiều so với các Nghị quyết trước đây, khẳng định tiếp tục thực hiện đồng bộ tất cả các mục tiêu giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 02/CP năm 2019 và 2020; đồng thời đặt trọng tâm vào một số nhóm chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể cần tập trung cao độ để chỉ đạo thực hiện nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa nhanh tới các tiêu chí khác.

Đó là 7 nhóm chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, bao gồm: cấp phép xây dựng (A3), đăng ký tài sản (A7), giải quyết tranh chấp hợp đồng (A9), giải quyết phá sản doanh nghiệp (A10), chất lượng quản lý hành chính đất đai (B3), ứng dụng công nghệ thông tin (B5), chất lượng đào tạo nghề (B6). Cùng với đó là 10 chỉ tiêu cụ thể về năng lực cạnh tranh 4.0 và đổi mới sáng tạo, bao gồm: chất lượng hành chính đất đai, chất lượng đào tạo nghề, kỹ năng của sinh viên, rào cản phi thuế quan, đăng ký phát minh sáng chế, kiểm soát tham nhũng, mức độ tiếp cận CNTT, mức độ tham gia giao dịch trực tuyến, cơ hội việc làm trong các ngành thâm dụng tri thức, môi trường sinh thái bền vững.

Nghị quyết cũng nhấn mạnh 4 nội dung trọng tâm trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết.

Thứ nhất, tập trung khắc phục bằng được những yếu kém, hạn chế trong việc kết nối, phối hợp giữa các cơ quan; làm rõ hơn vai trò cơ quan đầu mối cho từng nhóm chỉ tiêu, từng chỉ tiêu; phân định và quy trách nhiệm rõ ràng hơn cho từng cơ quan.

Thứ hai, tập trung chỉ đạo chuyển đổi số theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đồng bộ với thực hiện cải cách hành chính; bảo đảm thiết thực, hiệu quả gắn với các giải pháp tăng mức độ sẵn sàng với nền sản xuất mới trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, có chiến lược, kế hoạch trung, dài hạn với mục tiêu rõ ràng, bước đi cụ thể, kiên trì để tạo chuyển biến vững chắc đối với các tiêu chí có tính chất nền tảng, nhưng rất khó cải thiện trong thời gian ngắn như bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nghèo đa chiều, phát triển kinh tế-xã hội, văn hoá vùng núi, vùng sâu, vùng xa…; phấn đấu giữ vững và cải thiện thứ hạng phát triển bền vững, đồng thời phát triển nhanh cộng đồng doanh nghiệp phát triển bền vững (hiện mới có 2.000 DN trong tổng số hơn 700.000 DN).

Thứ tư, tiếp tục chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất – kinh doanh, khắc phục các tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19.

PV