Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công trong bối cảnh mới

(Quanlynhanuoc.vn) – Xã hội hóa dịch vụ công là vấn đề cần thiết, cấp bách và cũng là xu thế thời đại, ngay cả những quốc gia phát triển cũng không nhà nước nào đảm trách toàn bộ việc sản xuất, cung ứng dịch vụ công. Ở Việt Nam, với yêu cầu giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, đồng thời thực hiện sự tham gia của người dân vào việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước ta đã và đang thực hiện xã hội hóa cung ứng dịch vụ công với kết quả bước đầu đáng ghi nhận, tuy nhiên, để thành công, chúng ta cần phối hợp thực hiện nhiều giải pháp hơn nữa.
Ảnh minh họa (internet)
Những lợi ích của việc xã hội hóa dịch vụ công

Thực tiễn đã chứng minh rằng, các lợi ích chung mà dịch vụ công (DVC) đem lại thể hiện dưới hình thức hàng hóa công cộng – đây là loại hàng hóa mà mọi người đều có quyền ngang nhau trong tiếp nhận và sử dụng. Trong các loại hàng hóa công cộng, có loại hàng hóa thuộc DVC thuần túy, đồng thời thỏa mãn ba đặc tính sau:

Thứ nhất, là loại DVC không có tính loại trừ, nghĩa là việc tiêu dùng của người này không giảm lượng tiêu dùng của người khác hay có thể hiểu, tăng thêm một người được sử dụng, không làm giảm quyền lợi người đang sử dụng.

Thứ hai, là DVC mà việc tăng thêm một người sử dụng không làm tăng chi phí sản xuất ra loại DVC đó.

Thứ ba, là DVC mà mọi người sử dụng đều không phải trả tiền trực tiếp.

Như vậy, DVC có đặc điểm là tính chất xã hội cao, tính quần chúng rộng rãi với mục tiêu là phục vụ lợi ích cộng đồng, do Nhà nước đảm nhiệm cung cấp (trực tiếp hoặc ủy quyền) nhằm mục tiêu công bằng và hiệu quả. Vì vậy, tính kinh tế, hay việc tính toán lợi nhuận trong cơ chế thị trường không phải là điều kiện cần có của hoạt động cung ứng DVC. Việc trao đổi DVC không thông qua hoặc không bao hàm quan hệ thị trường đầy đủ.

Sự phát triển của DVC hay phạm vi DVC phụ thuộc vào quan niệm của mỗi nhà nước, vào sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa của mỗi nước đó. Chẳng hạn như: Ca-na-đa có tới 34 loại hàng hóa dịch vụ được coi là DVC (quốc phòng, an ninh, pháp chế, tạo việc làm, quy hoạch, bảo vệ môi trường và các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, bảo hiểm xã hội…).

Tại Pháp, phạm vi DVC bao gồm: các hoạt động công ích (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường…); các hoạt động sự nghiệp phục vụ nhu cầu tinh thần, sức khỏe của người dân (giáo dục, y tế, thể thao – thể dục…); các dịch vụ hành chính công (thuế vụ, an ninh, quốc phòng, cấp phép hộ khẩu, hộ tịch…).

Ở I-ta-li-a, DVC được giới hạn ở hoạt động sự nghiệp, hoạt động kinh tế công ích (điện, nước sạch, vệ sinh môi trường), các hoạt động cấp phép hộ khẩu, hộ tịch lại do cơ quan hành chính thực hiện1.

Hầu như các quốc gia, việc cung cấp DVC không chỉ có nhà nước đảm trách toàn bộ mà tiến hành xã hội hóa. Do đó, lợi ích từ xã hội hóa việc cung cấp DVC là rất đáng ghi nhận; không những giảm tải cho ngân sách nhà nước, huy động sự tham gia của khu vực tư mà còn thực hiện được việc đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người dân.

Từ thay đổi nhận thức về vai trò của Nhà nước đối với các dịch vụ công đến đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công

Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về đẩy mạnh xã hội hóa DVC nhằm huy động nguồn lực từ khu vực tư và sự tham gia của người dân vào việc giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội của Nhà nước. Và để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đã triển khai thực hiện nhiều hình thức xã hội hóa DVC, bao gồm:

(1) Nhà nước ủy quyền cho các tổ chức xã hội hay các tổ chức tư nhân cung ứng một số dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm và thường có nguồn kinh phí từ ngân sách (vệ sinh môi trường, hệ thống cấp thoát nước, thu gom và xử lý rác thải…). Các tổ chức và công ty được ủy quyền phải tuân thủ những quy định của Nhà nước và được Nhà nước cấp kinh phí.

(2) Nhà nước chuyển giao trách nhiệm cung ứng DVC cho một số tổ chức ngoài nhà nước có điều kiện thực hiện có hiệu quả (đào tạo, khám chữa bệnh, tư vấn, giám định). Các tổ chức ngoài nhà nước (như các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội) này được khuyến khích hoạt động theo cơ chế không vì lợi nhuận, mà chỉ thu phí để tự trang trải (Nhà nước sẽ trợ cấp khi cần thiết).

(3) Tư nhân hóa một số DVC theo những tiêu chí về quyền lợi và trách nhiệm, đồng thời, Nhà nước vẫn giám sát và bảo đảm lợi ích công cộng theo pháp luật. Ở trình độ phát triển cao về kinh tế và xã hội, Nhà nước mua DVC từ khu vực tư nhân, những dịch vụ mà tư nhân có thể làm tốt. Nhờ đó, số người làm dịch vụ trong cơ quan nhà nước sẽ được giảm bớt2.

Trải qua nhiều giai đoạn cải cách việc quản lý cung ứng DVC, đặc biệt là dịch vụ hành chính công, Việt Nam đã đạt được một số kết quả từ việc xã hội hóa DVC trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Kết quả thành công nhất của sự nhận thức về vai trò của Nhà nước đối với các DVC liên quan đến thủ tục hành chính. Trước đây, việc thực hiện các thủ tục hành chính chỉ có Nhà nước đảm nhận việc cung ứng và hiện nay, đã chuyển giao một phần cho các tổ chức ngoài nhà nước (ví dụ: Hà Nội đã có gần 20 phòng công chứng tư).

Các chính sách, quy định làm cơ sở cho việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa đã được Chính phủ nghiên cứu, ban hành nhằm thu hút các nguồn lực tham gia vào hoạt động phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao. Kết quả là hệ thống các cơ sở cung ứng DVC ngoài công lập ngày càng phát triển đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu của xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao…, tạo công ăn việc làm cho hàng chục vạn người. Mạng lưới các trường, cơ sở đào tạo, dạy nghề ngoài công lập được mở rộng ở các cấp học. Trình độ đào tạo; tỷ lệ học sinh, sinh viên ở các trường ngoài công lập ngày càng tăng. Nhiều cơ sở y tế ngoài công lập được thành lập ở các địa phương, thực hiện cấp cứu, khám, chữa bệnh cho hàng triệu lượt người, góp phần giảm tải cho các cơ sở khám, chữa bệnh công lập. Các cơ sở cung ứng dịch vụ văn hóa và thể dục – thể thao ngoài công lập tăng nhanh, thu hút được nhiều nguồn lực, nhiều thành phần kinh tế trong xã hội tham gia. Góp phần giảm tải đáng kể cho ngân sách nhà nước, đồng thời tạo ra và giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động3.

Tuy nhiên, hiện nay, việc tăng nhanh số lượng các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải có những biện pháp quản lý mới, nội dung và phương thức quản lý cần thay đổi do có nhiều vấn đề nảy sinh trong việc kiểm soát chất lượng dịch vụ. Không ít các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân thường chú trọng đến lợi nhuận nhiều hơn, nên có xu hướng đẩy cao giá dịch vụ, các loại phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ không tương xứng, cơ chế tài chính thiếu minh bạch (bất đối xứng thông tin). Nhiều cơ sở tư nhân được thành lập tự phát khó kiểm soát được chất lượng, như hàng loạt trường mầm non tư thục thành lập nhưng không đáp ứng đủ về không gian cho trẻ, thực phẩm và các điều kiện chăm sóc trẻ cũng không được bảo đảm, đội ngũ cô nuôi dạy trẻ thiếu kinh nghiệm, kiến thức cũng như đạo đức nghề nghiệp; các cơ sở khám, chữa bệnh không đáp ứng được yêu cầu, nâng tùy tiện giá thuốc; các hãng phim chạy theo xu hướng giải trí rẻ tiền, thiếu tính giáo dục, định hướng… Những vấn đề nan giải đó đang đặt ra yêu cầu về kiểm soát chất lượng đối với các dịch vụ đã được xã hội hóa, do khu vực tư cung ứng cho xã hội.

Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả xã hội hóa dịch vụ công trong giai đoạn mới

Muốn xã hội hóa DVC thành công cần thay đổi tư duy từ “quản lý”, sang “phục vụ”, nâng cao chất lượng và số lượng DVC, đồng thời ban hành các chính sách cần tập trung vào các nội dung sau:

Một là, thống nhất nhận thức trong hệ thống chính trị và người dân về việc thực hiện xã hội hóa DVC, xem đây là một trong những giải pháp quan trọng để huy động các nguồn lực của toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với sự phát triển đất nước. Giao kế hoạch hoặc đặt hàng và thanh toán dịch vụ theo đơn đặt hàng với đơn vị, tổ chức cung ứng DVC; thực hiện trợ giúp người nghèo, đối tượng chính sách được thụ hưởng dịch vụ sự nghiệp công; thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện DVC; tạo môi trường cho các chủ thể kinh tế cạnh tranh, hợp tác văn minh, kinh doanh có văn hóa.

Hai là, bảo đảm quyền tự chủ cho các chủ thể thuộc khu vực tư tham gia xã hội hóa cung ứng DVC, điều này cần được làm rõ để người dân và xã hội hiểu đúng; đồng thời hình thành các quan niệm đúng đắn, phù hợp liên quan đến các vấn đề về sản xuất, cung ứng DVC. Hoàn thiện pháp luật một cách đồng bộ, trao thẩm quyền cụ thể cho từng loại cơ quan thực hiện quản lý và cung ứng DVC; có chế tài xử lý vi phạm cùng với cơ chế bảo đảm thực hiện các chế tài đó khi có hành vi vi phạm. Từng bước chuyển cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập sang cơ chế cung ứng dịch vụ. Xây dựng các chế độ học phí, viện phí và phí, lệ phí trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao… được tính toán đầy đủ, bao gồm các chi phí cơ bản, phù hợp với khả năng huy động các nguồn lực trong xã hội và phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương, từng loại đối tượng4.

Cần có những quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi tự chịu trách nhiệm đối với những cơ sở công lập chuyển đổi sang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp – tự chủ, tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm. Cơ chế tài chính cần được làm rõ và mức độ vượt quá để Nhà nước có thể can thiệp kịp thời, tránh để tình trạng không kiểm soát được. Quy định rõ Nhà nước sẽ can thiệp khi có những thay đổi khách quan như thay đổi mức phí, khi giá dịch vụ cao hơn mặt bằng chung hoặc khi thực hiện chính sách xã hội…

Ba là, quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập cần được rà soát, kiểm tra, đặc biệt chú ý đến quy hoạch phát triển các dịch vụ ngoài công lập nhằm đáp ứng quy mô định hướng phát triển, phù hợp với yêu cầu của xã hội; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư của nước ngoài. Các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển các đơn vị DVC lập và dịch vụ ngoài công lập được tăng cường và đa dạng hóa.

Bốn là, Nhà nước cần ban hành những chính sách hỗ trợ đầu tư ban đầu và khuyến khích khu vực tư cùng với các chính sách đầu tư có hiệu quả cho các loại hình DVC lập, đa dạng các hình thức đối tác công tư (PPP) (tư nhân góp vốn, liên doanh, vốn đầu tư nước ngoài); BOT (đầu tư – khai thác – chuyển giao); đầu tư xây dựng nhà cửa, kết cấu hạ tầng cho các cơ sở ngoài công lập thuê dài hạn với giá ưu đãi, hỗ trợ khu vực tư có điều kiện phát triển. Các địa phương có quy hoạch về đất, dành quỹ đất để xây dựng và phát triển các cơ sở ngoài công lập phù hợp với định hướng phát triển xã hội hóa. Đẩy mạnh truyền thông, thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa DVC một cách thường xuyên, liên tục và có hệ thống trên các phương tiện truyền thông.

Năm là, thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát hợp lý, ban hành các tiêu chuẩn về chất lượng DVC. Cần xây dựng và ban hành tiêu chuẩn hóa về cán bộ, điều kiện cơ sở vật chất và những yêu cầu khác đối với các cơ sở ngoài công lập; quy định chế độ thông tin, báo cáo và trách nhiệm giải trình của các đơn vị có dịch vụ sự nghiệp công.

Sáu là, cần có sự hỗ trợ cần thiết về cơ chế, chính sách để khu vực tư bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước trong khả năng tiếp cận các nguồn lực trên thị trường.

Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế, liên doanh liên kết với các quốc gia, tranh thủ các nguồn viện trợ nhằm đẩy mạnh xã hội hóa cung ứng dịch vụ giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ; có chính sách động viên, thu hút đội ngũ trí thức Việt kiều về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, khám, chữa bệnh, hoạt động văn hóa, thi đấu thể thao…

Xã hội hóa dịch vụ công là giải pháp hữu hiệu để giải quyết tốt những vấn đề như giảm tải cho ngân sách nhà nước, gia tăng sự tham gia đóng góp sức người sức của mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bình đẳng xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội. Vai trò của Nhà nước là kiến tạo và sử dụng thành thạo các công cụ quản lý để tạo điều kiện. Dù vậy, việc đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc căn bản của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đúng quan điểm của Đảng là xã hội hóa chứ không tư nhân hóa.

Chú thích:
1. Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia). Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước vấn đề và giải pháp. H. NXB Lao động – xã hội, 2002.
2. Lê Chi Mai. Dịch vụ Hành chính công. NXB Lý luận chính trị, 2006.
3, 4. Đỗ Đức Anh, Lê Hồng Sơn. Xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản, tháng 4/2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Học viện Hành chính Quốc gia. Hành chính công (dùng cho nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học). H. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2006.
3. Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao.
TS. Đặng Thị Hà
Học viện Hành chính Quốc gia