Một số vấn đề đặt ra trong phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và chính quyền địa phương hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều đổi mới quan trọng trong quá trình đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, song vẫn còn những hạn chế cần tiếp tục khắc phục. Bài viết tập trung luận giải những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện phân cấp, phân quyền giữa trung ương và chính quyền địa phương, trên cơ sở đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm đẩy mạnh quá trình phân cấp, phân quyền ở Việt Nam hiện nay.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc với chủ đề ‟Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước”, ngày 04/11/2021. Ảnh: TTXVN.
Khái quát về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và chính quyền địa phương

Những văn bản đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (năm 1945) đã đề cập vấn đề phân cấp, phân quyền (PCPQ). Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 76 ngày 21/12/1945 quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban hành chính nhà nước các địa phương đã thể hiện tinh thần PCPQ của Đảng, Nhà nước ta từ rất sớm. Vấn đề PCPQ tiếp tục được đề cập trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và một phần ở các văn bản dưới luật khác. Khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, mối quan hệ giữa trung ương và chính quyền địa phương (CQĐP) chuyển dần từ cơ chế tập trung, bao cấp sang phân cấp theo pháp luật. Điều 26 Hiến pháp năm 1992 chỉ rõ: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các cấp, kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nước”.

Những năm gần đây, chủ trương PCPQ được Đảng, Nhà nước chú trọng và được thể chế hóa thông qua các văn bản pháp luật. Tiêu biểu là Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức CQĐP năm 2019, Nghị quyết số 21/2016/NQ-CP ngày 21/3/2016 của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước (QLNN) giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Và, mới đây là thể hiện trong Nghị quyết số 99/2020/NQ-CP ngày 24/6/2020 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp QLNN theo ngành, lĩnh vực.

Về mặt khái niệm, có nhiều nghiên cứu về thuật ngữ “phân quyền”, “phân cấp” với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Nhưng tựu trung lại, có thể hiểu phân quyền là phân chia quyền lực giữa các cấp chính quyền trong một quốc gia. Quyền lực nhà nước được phân chia cho cấp trung ương và các cấp CQĐP. Phân cấp là việc trung ương phân chia quyền lực xuống cho các cấp CQĐP.

Từ thực tiễn ở Việt Nam, có thể tiếp cận khái niệm phân cấp QLNN là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa chức năng, nhiệm vụ với năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động QLNN.

Phân quyền giữa trung ương và CQĐP được nghiên cứu phân quyền theo chiều dọc (theo lãnh thổ). Đó là việc cấp trung ương chuyển giao một phần quyền hạn, nhiệm vụ, phương tiện, vật chất cho các cấp CQĐP thực hiện. CQĐP là pháp nhân công quyền, được tự quyết các vấn đề của địa phương trên cơ sở pháp luật. Trung ương thực hiện kiểm tra hoạt động của CQĐP thông qua hệ thống pháp luật và tài phán hành chính. Trong phân quyền không tồn tại tính thứ bậc hành chính giữa các đơn vị hành chính – lãnh thổ như trong phân cấp. Các địa phương có quyền hạn riêng do Hiến pháp và pháp luật quy định.

Việc phân quyền một cách rõ ràng sẽ tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, đặc biệt là khi có vấn đề nảy sinh. Sự phân định hợp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương bằng các văn bản pháp luật sẽ là tiêu chí để đánh giá tính hợp pháp, trách nhiệm, hiệu quả trong hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước.

Hiểu rõ PCPQ là một trong các vấn đề cốt lõi để nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, những năm gần đây, Việt Nam ngày càng tăng cường PCPQ. Khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương”. Khoản 4 Điều 5 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ: “phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương”.

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) xác định: “Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm”.

Học viện Hành chính Quốc gia tổ chức Hội thảo khoa học “Phân cấp, phân quyền Trung ương – Địa phương, ngày 07/10/2021.
Những vấn đề đặt ra trong phân cấp, phân quyền giữa trung ương và chính quyền địa phương

PCPQ đã đạt được những kết quả quan trọng, thể hiện tầm nhìn, quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong vấn đề PCPQ. Chủ trương PCPQ đã được Đảng ta khẳng định; thể chế hóa trong Hiến pháp, cụ thể hóa thành luật và các quy định. Hệ thống văn bản pháp luật từng bước hoàn thiện với các quy định về phân công, PCPQ giữa trung ương và CQĐP cũng như giữa các cấp CQĐP.

Nhiều thủ tục hành chính được bộ, ngành trung ương PCPQ cho địa phương giải quyết đã góp phần giảm bớt gánh nặng chi phí, thời gian, khâu trung gian, phục vụ kịp thời hơn, tốt hơn cho doanh nghiệp và Nhân dân. Hiệu quả của PCPQ cũng có thể thấy rõ khi mỗi địa phương chủ động trong triển khai phương án ứng phó với đại dịch Covid-19, từ đó giảm thiệt hại do dịch bệnh gây ra đến mức thấp nhất.

Tuy nhiên, việc PCPQ giữa trung ương và CQĐP hiện nay cũng đang đặt ra một số vấn đề sau:

Thứ nhất, hệ thống pháp lý quy định về PCPQ chưa thực rõ ràng, một số quy định chỉ dừng lại ở những nguyên tắc, yêu cầu mà chưa có những cơ chế cụ thể. Trong bối cảnh này, quyền lực được hiểu là tập trung ở cấp trung ương. Chính vì vậy, phân cấp thường được hiểu là việc Chính phủ phân chia quyền lực cho các cấp CQĐP. Theo cách hiểu này, một loạt vấn đề sẽ được đặt ra do chưa có quy định rõ ràng: trung ương có thể phân cấp những quyền năng gì hay tất cả mọi quyền năng của mình; phân cấp quyền năng thì có phân cấp quản lý và sử dụng tài chính không; trung ương có thể phân cấp xuống dưới cấp tỉnh hay không hay trung ương chỉ phân cấp đến cấp tỉnh; cấp tỉnh phân cấp cho cấp huyện; cấp huyện phân cấp cho cấp xã; phân cấp rồi có còn phải chịu trách nhiệm nữa không hay cứ phân cấp là hết trách nhiệm; thời hạn phân cấp nên được xác định như thế nào?…

Đa số các luật, văn bản dưới luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, Ủy ban nhân dân các cấp trên các lĩnh vực tương đối giống nhau, trùng lắp nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp CQĐP trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội. Có nhiều lĩnh vực cả ba cấp CQĐP được giao thẩm quyền ngang nhau và chưa xác định rõ giới hạn phạm vi thẩm quyền của mỗi cấp. Thực tế, việc phân cấp giữa trung ương và CQĐP chỉ nặng về chuyển giao công việc (nhiệm vụ) từ cấp trên xuống chứ chưa chuyển giao tương xứng với thẩm quyền và nguồn lực cần thiết (tổ chức, nhân sự, tài chính). Do vậy, việc phân cấp chưa cụ thể và triệt để.

Trong quá trình phân cấp, trung ương còn quyết định những vụ việc cụ thể, những chính sách tầm vi mô. Việc phân cấp còn mang tính đồng loạt và chưa rõ ràng, chưa xác định mỗi cấp CQĐP có những nhiệm vụ và thẩm quyền một cách cụ thể.

PCPQ nếu chỉ dừng lại ở nguyên tắc mà không được quy định rõ về cơ chế, phương thức thực hiện, chế tài xử lý thì sẽ khó có thể đưa chính sách này vào thực tiễn. Có thể thấy, đây là khoảng trống lớn nhất từ chính sách đến thực tiễn, cần được lấp đầy.

Thứ hai, PCPQ chưa thực sự đi kèm với những điều kiện cần để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả. Để PCPQ một cách hiệu quả và công bằng thì nó phải được thực hiện cùng với các điều kiện về nguồn lực, quy mô của địa phương được phân cấp, sự minh bạch thông tin, tiếng nói và trách nhiệm giải trình.

Về nguồn lực: là một trong các điều kiện tiên quyết tác động trực tiếp đến mức độ PCPQ của trung ương đối với địa phương. Thoạt nhìn, có vẻ như CQĐP đang được giao ngày càng nhiều ngân sách, thể hiện qua thực tế là cả tỷ lệ thu và chi của cấp CQĐP so với tổng chi tiêu liên tục tăng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, nguồn lực của đa số các địa phương ở Việt Nam còn khá hạn chế. Nếu nhìn sâu hơn vào bức tranh thu – chi ngân sách thì thấy tồn tại một số vấn đề quan trọng, thể hiện ở 3 khía cạnh sau: (1) Tỷ lệ thu ngân sách của địa phương tăng lên trong thời gian gần đây không thực sự xuất phát từ những thay đổi cơ bản trong thiết kế phân cấp ngân sách, mà xuất phát từ việc gia tăng một số nguồn thu được để lại 100% ở địa phương. (2) Trong ngân sách chung của Nhà nước, tỷ lệ thu của ngân sách địa phương vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ chi. Điều này có nghĩa là một phần rất lớn trong chi ngân sách của địa phương vẫn phụ thuộc vào các khoản chuyển giao từ trung ương, do vậy,  làm tăng  sự phụ thuộc của CQĐP vào trung ương. (3) Mặc dù tỷ lệ chi ngân sách địa phương tăng, song trong một phần rất lớn trong tỷ lệ tăng thêm này là những khoản chi có tính định mức và do vậy, CQĐP vẫn chưa thực sự được tự chủ mà buộc phải tuân theo. Điều này càng đúng đối với các tỉnh không tự chủ được ngân sách, tức là không gian tài khóa vừa hẹp, vừa thiếu khả năng tự chủ.

Thứ ba, sự phân định trách nhiệm, quyền hạn của trung ương và CQĐP, cũng như giữa các cấp CQĐP trong một số lĩnh vực chưa hợp lý hoặc thiếu rõ ràng, dẫn đến những bất cập theo các chiều hướng khác nhau. Chẳng hạn, trong lĩnh vực tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, thẩm quyền quyết định số lượng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp thuộc về Chính phủ. Trên lĩnh vực quản lý nhân sự hành chính nhà nước, sự tự chủ thực sự của các cơ quan trực tiếp sử dụng công chức vẫn chưa được bảo đảm. UBND cấp tỉnh không có quyền tuyển dụng thêm người mới dựa trên nhu cầu công việc nếu không được phân bổ thêm chỉ tiêu biên chế. Trong phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, do quyền phân bổ nguồn thu, nhiệm vụ chi tập trung ở cấp tỉnh mà không quy định cụ thể trong luật về việc phân cấp cho cấp huyện và cấp xã, nên có tình trạng nguồn lực tập trung ở cấp tỉnh, không tạo được sự chủ động về ngân sách của chính quyền cấp dưới để thực thi các nhiệm vụ được giao.

Thứ tư, tình trạng phân cấp đại trà, phân cấp thiếu đồng bộ là rào cản đối với quá trình đẩy mạnh PCPQ. Việc có một tấm áo phân cấp chung cho tất cả các địa phương là điều có thể hiểu được từ góc độ cấp trung ương, song điều này hạn chế hiệu quả của chính sách phân cấp. Một hệ thống phân cấp hiệu quả sẽ điều chỉnh mức độ tự quyết của chính quyền mỗi tỉnh sao cho phù hợp nhất với năng lực của chính quyền đó. Tất nhiên, khi không gian phân cấp của một địa phương nào đó trở nên rộng rãi hơn thì cũng cần phải quy định trách nhiệm giải trình chặt chẽ hơn và công tác điều hành của CQĐP đó phải minh bạch hơn.

Phân cấp ở Việt Nam không cân đối trên ít nhất hai khía cạnh: một là, các nội dung khác nhau của phân cấp không song hành với nhau và do vậy, không những không tạo ra tác dụng cộng hưởng mà còn hạn chế hiệu quả của phân cấp. Chẳng hạn như phân cấp về quản lý đất đai, quản lý FDI và trong một chừng mực nào đó, phân cấp tài khóa diễn ra khá mạnh mẽ song lại không được đi kèm với phân cấp chính trị. Điều này có nghĩa là không gian tự quyết của địa phương được mở rộng nhưng cơ chế để buộc CQĐP hành động thực sự vì lợi ích của người dân địa phương không được cải thiện một cách tương ứng.

Thứ năm, vấn đề kiểm soát việc thực hiện PCPQ còn thiếu chặt chẽ. Từ góc độ của cấp trung ương, phân cấp có khả năng làm xói mòn tính thống nhất của chính sách quốc gia, gia tăng sự cạnh tranh không lành mạnh giữa CQĐP, do đó, một mặt, làm suy giảm mức độ kiểm soát của trung ương, mặt khác, làm tăng tính cục bộ địa phương. Việc tăng tính tự quản của CQĐP trong nhiều trường hợp thực tế có thể dẫn tới việc phá vỡ tính thống nhất của chính sách quốc gia.

Cơ chế giám sát ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng là thông qua các cơ quan đại biểu dân cử. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, hiệu quả và hiệu lực của hoạt động giám sát của HĐND các cấp còn rất hạn chế.

Hành lang pháp lý liên quan đến kiểm soát PCPQ còn tản mạn và chưa đầy đủ, nhất là những chế tài xử lý đối với các vi phạm về PCPQ. Việc kiểm soát, thanh tra, kiểm tra của trung ương đối với hoạt động của các cơ quan ở địa phương trong quá trình PCPQ chưa thực sự hiệu quả, có thể dẫn đến nhiều địa phương lợi dụng việc PCPQ để đưa ra các quyết sách vì lợi ích cục bộ hoặc thực hiện quyết sách theo hướng có lợi cho địa phương, thậm chí sẵn sàng vi phạm các quy định mà cơ quan quản lý trung ương đã ban hành.

Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, đó là nhận thức về PCPQ trong thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất còn hạn chế; cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan và cơ chế kiểm soát quyền lực chưa đầy đủ. Những đặc trưng, tiêu chuẩn cơ bản của mô hình Nhà nước của dân, do dân và vì dân trong điều kiện ở Việt Nam chưa được xác định đủ rõ. Các nguyên tắc dân chủ, pháp quyền và thượng tôn pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam chưa được nhận thức và thực thi đầy đủ. Vai trò của hệ thống pháp luật, với tư cách là công cụ để Nhân dân kiểm soát quyền lực, thực hiện quyền làm chủ của người dân, tham gia vào các hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là các nội dung liên quan đến PCPQ có nơi còn bị buông lỏng. Cơ chế bảo vệ pháp luật và tăng cường pháp chế chưa đầy đủ, còn hạn chế. Các thiết chế kiểm soát quyền lực chưa được chế định đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ và hiệu quả.

Một số khuyến nghị mang tính giải pháp

Trong thời gian tới, để hoàn thiện việc PCPQ giữa trung ương và địa phương, cần quan tâm đến những phương diện sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCPQ trong điều kiện mới. Trong đó, coi trọng đúng mức sự đồng bộ, phù hợp với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, phù hợp với lĩnh vực, nhiệm vụ PCPQ. Rà soát và chuyển các nhiệm vụ, lĩnh vực có đủ điều kiện, được PCPQ bằng chính sách sang luật hóa, tham gia giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; giữa bảo đảm pháp chế, trật tự, kỷ cương với phát huy quyền làm chủ và nghĩa vụ, trách nhiệm của người dân. Các quy định về PCPQ cần được cụ thể hóa trong các quy định của pháp luật, khắc phục tình trạng chỉ quy định khung, gây lúng túng, khó áp dụng hoặc áp dụng tùy tiện trong thực tiễn.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan trung ương và CQĐP theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chuyển mạnh sang xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, lấy sự hài lòng của người dân làm tiêu chí, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực sự tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật là kết quả của sự thể chế đường lối, chính sách của Đảng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền công dân. Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước phải bảo đảm phân định rõ đặc điểm, tổ chức chính quyền từng cấp, phù hợp với các loại hình đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo, đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở.

Ba là, rà soát nhiệm vụ, quyền hạn để PCPQ mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với CQĐP để góp phần tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Ở trung ương, bảo đảm không chồng chéo, trùng lắp nhiệm vụ giữa các cơ quan của bộ máy nhà nước, chức năng, nhiệm vụ đến đâu thì thẩm quyền, trách nhiệm thực hiện được giao phù hợp, một việc chỉ giao một cơ quan chịu trách nhiệm chính. Đối với địa phương, cần bảo đảm sự phù hợp giữa nhiệm vụ, lĩnh vực PCPQ với các địa phương, điều kiện thực hiện theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Trong quá trình tinh gọn bộ máy, cần quan tâm đến vấn đề quy mô của các đơn vị hành chính. Nghiên cứu sáp nhập, sắp xếp lại để bảo đảm điều kiện về quy mô, nguồn lực phù hợp với chủ trương PCPQ.

Bốn là, PCPQ phải gắn với phân rõ trách nhiệm, rõ công việc, rõ hiệu quả, đi đôi với cơ chế hướng dẫn, kiểm tra, giám sát quyền lực; bảo đảm thực hiện hiệu quả công việc được giao, quyết liệt tháo gỡ cơ chế, chính sách còn vướng mắc, thiếu đồng bộ; PCPQ cho chính quyền cấp dưới phải căn cứ vào khả năng thực hiện nhiệm vụ được phân cấp. Đẩy mạnh PCPQ không chỉ giữa trung ương và địa phương mà còn giữa các cấp CQĐP, đi đôi với phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động, linh hoạt, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, không thụ động, trông chờ, ỷ lại. Có như vậy, chính sách PCPQ mới thực sự phát huy hiệu quả, là cơ chế thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Năm là, hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, kiểm soát giữa các cơ quan của trung ương và giữa trung ương với địa phương được thông suốt. PCPQ luôn gắn liền với kiểm tra, kiểm soát, giám sát việc thực hiện. Ở trung ương, cơ chế kiểm soát quyền lực phải phù hợp với mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, quyền lực là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan của bộ máy nhà nước. Ở địa phương phải bảo đảm tính hiệu quả của kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan trung ương. Xây dựng luật pháp và thiết kế chính sách luôn bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Coi trọng các hình thức giám sát của các cơ quan, tổ chức xã hội, báo chí truyền thông và giám sát của người dân đối với hoạt động của cơ quan công quyền. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội trong giám sát, phản biện xã hội. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan của bộ máy nhà nước, giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội trong cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình về các nội dung liên quan đến PCPQ bảo đảm việc giám sát được thực hiện hiệu quả.

Nhìn từ góc độ toàn xã hội, có thể thấy nhiều thành tựu nổi bật của quá trình đổi mới được bắt nguồn từ quá trình PCPQ. PCPQ đã giúp CQĐP có nhiều không gian chính sách và quyền tự chủ hơn trong việc theo đuổi các mục tiêu của mình. PCPQ góp phần tạo điều kiện cho CQĐP linh hoạt hơn trong phân bổ, huy động nguồn lực. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được vẫn chưa được như kỳ vọng, do đó, trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh tiến trình này không chỉ ở quyết tâm chính trị mà còn phải đưa ra các giải pháp hiện thực hóa vào đời sống xã hội.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
3. Đánh giá chính sách phân cấp, phân quyền hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. http://www. tcnn.vn, ngày 17/12/2018.
4. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
5. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019.
TS. Nguyễn Đăng Quế
Học viện Hành chính Quốc gia