Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nam nữ bình quyền vào công tác bình đẳng giới trong quân đội

(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về nam nữ bình quyền là một nội dung quan trọng trong hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh. Trong môi trường quân đội, điều kiện để phát huy vai trò của nam giới và nữ giới không giống như vấn đề giới ở các lĩnh vực, ngành nghề khác. Do đó, việc quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về nam nữ bình quyền trong Quân đội rất quan trọng. Bài viết phân tích làm rõ tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về nam nữ bình quyền, từ đó, đề xuất một số định hướng thực hiện bình đẳng giới trong Quân đội. Đây là cơ sở, điều kiện để phụ nữ trong quân đội tiếp tục cống hiến, thể hiện vai trò của mình trong giai đoạn cách mạng mới.
Ảnh minh họa: TTXVN.

Nam nữ bình quyền (NNBQ) là một trong những quyền cơ bản, thiêng liêng của con người. Đấu tranh cho NNBQ, giải phóng phụ nữ luôn gắn liền với các cuộc cách mạng xã hội. Trình độ giải phóng phụ nữ chính là thước đo trình độ phát triển, tiến bộ của một xã hội dân chủ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng sự nghiệp giải phóng phụ nữ, luôn quan tâm đến công tác phụ nữ. Tư tưởng NNBQ của Người luôn là những chỉ dẫn quý báu đối với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc ta. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người vào điều kiện thực tiễn, góp phần phát huy vai trò, sức mạnh to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp giải phóng đất nước trước đây cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nam nữ bình quyền

Tư tưởng Hồ Chí Minh về NNBQ là toàn bộ hệ thống quan niệm, quan điểm về vị trí vai trò của người phụ nữ, thực chất, mục tiêu, nội dung, phương hướng, biện pháp đấu tranh thực hiện NNBQ và giải phóng phụ nữ trong từng giai đoạn cách mạng. Đây cũng chính là nội dung cốt lõi của vấn đề bình đẳng giới (BĐG) hiện nay mà thế giới và Việt Nam đang nỗ lực theo đuổi vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Những tư tưởng cốt lõi về NNBQ của Hồ Chí Minh thể hiện ở một số luận điểm sau:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh chỉ ra vai trò, sứ mệnh cao cả của phụ nữ trong tiến trình cách mạng Việt Nam

Hồ Chí Minh là người đầu tiên gắn liền cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với cuộc đấu tranh cho bình đẳng và giải phóng phụ nữ. Người coi đó là nhiệm vụ quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến một nửa số dân, đến từng gia đình trong cộng đồng xã hội. Người đã nhìn thấy ở những người phụ nữ bị áp bức, đọa đầy này một sức mạnh to lớn, sức mạnh mà tất cả các cuộc cách mạng trong lịch sử nhân loại không thể thiếu. Người khẳng định: “Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là không có đàn bà con gái tham gia”1. Xuất phát từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Người viết: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến ngày nay, mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc”2.

Phụ nữ không chỉ góp phần đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc, mà còn tích cực tham gia cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, Người khẳng định: “…, phụ nữ đều ra sức gánh vác công việc. Nào giúp đỡ chiến sĩ, tăng gia sản xuất. Nào chống nạn mù chữ, tham gia tuyển cử, Tuần lễ Vàng, Đời sống mới,… việc gì phụ nữ cũng hăng hái”3. Vì thế, những đóng góp to lớn đó được Người khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”4.

Thứ hai, Hồ Chí Minh chỉ ra thực chất thực hiện NNBQ.

Theo Hồ Chí Minh, thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới chính là giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ trên tất cả các mặt công tác Trong gia đình cũng như ngoài xã hội, công việc của phụ nữ phải được phân công một cách khoa học, thỏa đáng phù hợp với sức khỏe thể chất, tính cách, chức năng của phụ nữ, để tạo điều kiện phát huy mọi khả năng, ưu thế của phụ nữ trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc và phát triển xã hội. Người cũng đã chỉ rõ bản chất của cuộc đấu tranh giành quyền bình đẳng nam nữ phải là cuộc cách mạng tư tưởng, cách mạng trong nhận thức của từng gia đình, từng người dân, thông qua những tiến bộ trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật… chứ không thể đấu tranh bằng vũ lực. Nó cũng không phải đơn giản như: “Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ, chỉ: hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát thế là bình đẳng bình quyền. Lầm to! Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó… Dù to và khó nhưng nhất định thành công”5.

Thứ ba, Hồ Chí Minh chỉ rõ các chủ thể trong thực hiện NNBQ, giải phóng phụ nữ.

Người khẳng định việc thực hiện quyền bình đẳng là một nhiệm vụ trọng yếu của Đảng, vì vậy: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”6. Trong suốt chặng đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tư tưởng NNBQ luôn luôn được thể hiện trong lời nói cũng như việc làm của Hồ Chí Minh. Điều đó không chỉ là chủ trương đấu tranh nhằm giải phóng phụ nữ mà còn được hiện thực hóa bằng những nội dung cụ thể trong Hiến pháp của Nhà nước sau khi nước nhà độc lập, thống nhất.

Thứ tư, Hồ Chí Minh chỉ ra nội dung thực hiện NNBQ.

Hồ Chí Minh chỉ ra việc thực hiện NNBQ phải được tiến hành trên mọi phương diện, từ gia đình đến xã hội, cả về kinh tế, chính trị và văn hóa tư tưởng. Điều đó, thể hiện tính toàn diện và triệt để trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, bảo đảm cho phụ nữ có quyền bình đẳng thực sự, vững chắc; đồng thời, phát huy cao nhất vai trò của người phụ nữ trên tất cả các phương diện của đời sống xã hội, tiêu biểu trên các lĩnh vực:

(1) NNBQ trên lĩnh vực kinh tế. Theo Hồ Chí Minh, đây là điều kiện có ý nghĩa quyết định để đạt được bình đẳng nam nữ. Hồ Chí Minh xác định phụ nữ là một lực lượng lao động quan trọng, do đó, trọng tâm của việc thực hiện NNBQ về kinh tế là phải giải phóng sức lao động của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ có thể tham gia bình đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực kinh tế, đó cũng chính là giải phóng sức lao động xã hội. Người khẳng định: “Muốn sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức lao động. Muốn có nhiều sức lao động thì phải giải phóng sức lao động của phụ nữ”7. Thực hiện NNBQ về kinh tế không chỉ tạo điều kiện cho người phụ nữ thêm những cơ hội phát triển tài năng, trí tuệ, sức sáng tạo của mình mà còn đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi ngày càng nhiều nguồn nhân lực.

(2) NNBQ trên lĩnh vực chính trị. Thực hiện NNBQ trên lĩnh vực chính trị theo Hồ Chí Minh phải bắt đầu từ việc trang bị cho họ về lý luận, tổ chức họ tự giác tham gia tích cực cuộc đấu tranh giải phóng cho chính họ từ người dân mất nước trở thành công dân của một nước tự do, độc lập, có chủ quyền. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm tuyên truyền, giác ngộ phụ nữ, đưa phụ nữ tham gia tích cực vào công việc cách mạng, chú ý nêu gương phụ nữ và những phong trào của phụ nữ. Từ những phụ nữ đầu tiên tham gia vào tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do Người sáng lập đến những đoàn thể của phụ nữ ra đời trong quá trình đấu tranh giành chính quyền và lần đầu tiên trong lịch sử khi phụ nữ được tham gia sinh hoạt chính trị rộng rãi: “Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó”8. Số liệu thống kê “Ở Quốc hội khóa II, trong 362 đại biểu miền Bắc thì có 49 đại biểu phụ nữ. Trong cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội khóa III, có 447 người được giới thiệu ra ứng cử thì 85 người là phụ nữ. Kết quả đầu tiên ở Hà Nội, 36 vị được bầu vào Quốc hội thì có 5 đại biểu phụ nữ”9.

Để nữ giới vươn lên làm chủ về chính trị một cách vững chắc, Hồ Chí Minh luôn động viên và tạo mọi điều kiện để phụ nữ hăng hái học tập, nâng cao trình độ; đồng thời, rất quan tâm đến công tác cán bộ nữ: “phải chú trọng bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ nữ, nhất là trong nhà máy, quá nửa công nhân là phụ nữ”10. Tuy nhiên, Người cũng phê phán nghiêm khắc những thái độ thành kiến, hẹp hòi của cán bộ lãnh đạo đối với việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ. Người nhắc nhở: “… các đồng chí nam giới còn trọng nam khinh nữ. Đấy là một khuyết điểm, sau này một mặt các cô phải đấu tranh, còn cán bộ nam giới phải chú ý bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ nữ”11.

(3) NNBQ trong gia đình. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng về mọi mặt”12. Theo đó, vai trò của phụ nữ trong xã hội được thể hiện chính từ vai trò của họ trong gia đình mình với tư cách là hạt nhân của xã hội. Chính vì vậy, giải phóng phụ nữ từ trong gia đình phải đi liền với giải phóng phụ nữ về mặt xã hội và nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội. Hồ Chí Minh căn dặn phụ nữ phải tham gia vào công việc xã hội, tham gia làm chủ đất nước và đó là quyền lợi, đồng thời là trách nhiệm to lớn của phụ nữ.

Thứ năm, Hồ Chí Minh chỉ rõ phương hướng, biện pháp để thực hiện NNBQ và giải phóng phụ nữ.

Trong từng giai đoạn cách mạng Việt Nam, tùy theo tình hình cụ thể, Hồ Chí Minh chỉ rõ mục tiêu, phương hướng và các hình thức biện pháp thích hợp để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và thực hiện bình đẳng nam nữ. Theo Người, giải phóng phụ nữ là sự kết hợp của hai yếu tố: (1) Bản thân người phụ nữ phải tự phấn đấu vươn lên. (2) Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, gia đình và xã hội. Giải quyết sự BĐG không phải chỉ là việc giải quyết những mâu thuẫn thường ngày giữa nam và nữ, càng không phải là việc riêng của phụ nữ, mà đó là những vấn đề xã hội đòi hỏi sự quan tâm của tất cả xã hội. Đặc biệt là vai trò của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, Người nhấn mạnh: “Các cấp lãnh đạo đi sát hơn, thiết thực hơn, thì phong trào phụ nữ chắc rộng hơn, mạnh hơn nữa”13.

Phương pháp chủ yếu của Hồ Chí Minh là lấy những tấm gương tiêu biểu trong phong trào phụ nữ để cổ vũ sự phấn đấu về mọi mặt của các chị em khác. Người nói: “Nam chiến sĩ nhiều, nhưng nữ chiến sĩ ít, chúng ta phải khuyến khích các chị em có thành tích như cô Dâu Thị Nhàn”14. Người nhấn mạnh những biện pháp thiết thực trong thực hiện NNBQ đó là kết hợp giáo dục với kỷ luật, chống lại tệ coi thường phụ nữ, nạn tảo hôn, cản trở hôn nhân tự do. Đồng thời, Người cũng nhắc nhở: “Phụ nữ phải tham gia chính quyền nhiều hơn và thiết thực hơn nữa”15, “chị em còn phải cố gắng học tập và đấu tranh hơn nữa để đi đến thật sự nam nữ bình quyền”16. Theo đó, phụ nữ phải ý thức được vai trò vị thế của mình mà phấn đấu cho sự bình đẳng tiến bộ của mình và dân tộc, phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu, xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về NNBQ là quan điểm khoa học có tính thực tiễn với tư duy khách quan mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Việc thực hiện NNBQ là một trong những mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mà suốt đời Người phấn đấu, hy sinh cho mục tiêu lý tưởng đó. Đây cũng là sự nghiệp giải phóng chân chính, toàn diện và triệt để nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người đã đặt nền móng cơ bản để chúng ta xây dựng gia đình “ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, một bảo đảm cho sự bình đẳng giữa nam và nữ.

Công tác bình đẳng giới trong Quân đội nhân dân Việt Nam

Trong môi trường quân đội và hoạt động quân sự, cơ hội, điều kiện thực hiện BĐG là rất khó khăn. Song, Quân đội ta đã thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch, cụ thể hóa nhiều chính sách nhằm bảo đảm quyền lợi cho nữ giới, đặc biệt đã quán triệt và thực hiện hiệu quả Quyết định số 515/QĐ-TTg ngày 31/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện biện pháp bảo đảm BĐG đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2020 trong Bộ Quốc phòng. Vì vậy, công tác BĐG trong Quân đội thời gian qua đạt được nhiều kết quả đáng kể trên các lĩnh vực cơ bản, như: chính trị; kinh tế và lao động; giáo dục, đào tạo; y tế; gia đình, thông tin…

Tiêu biểu trên lĩnh vực chính trị, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho phụ nữ quân đội nhận thức ngày càng đúng vai trò, vị thế của mình trên các lĩnh vực công tác; có chính sách khuyến khích, động viên, tạo điều kiện để phụ nữ quân đội tham gia ngày càng nhiều các hoạt động của các cơ quan, đơn vị; giải quyết hài hòa giữa công việc gia đình… Đồng thời, chú trọng xây dựng chương trình, kế hoạch, quy hoạch phát triển, duy trì tỷ lệ cán bộ nữ phù hợp ở một số ngành chuyên môn kỹ thuật và cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy các cấp. Hiện nay, số cán bộ nữ giữ chức vụ quản lý, chỉ huy so với tổng số cán bộ nữ hiện đang công tác là 25,8% (trong đó, cấp trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng là 0,19%; cấp cục và tương đương là 1,07%; cấp phòng, khoa và tương đương là 16,7%; cấp tiểu đoàn, đại đội là 6,15%; 1 nữ quân nhân được phong quân hàm cấp tướng17.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện BĐG trong Quân đội hiện nay đã và đang đặt ra một số vấn đề: Công tác tuyên truyền về BĐG có lúc chưa thường xuyên, chậm đổi mới nội dung, hình thức; định kiến về giới, phân biệt đối xử nam nữ; một số cấp ủy đảng, tổ chức chỉ huy, các đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến công tác phụ nữ, bồi dưỡng và phát triển cán bộ nữ; số phụ nữ quân đội tham gia cấp ủy, lãnh đạo, quản lý còn ít; trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề của chị em nhìn chung còn thấp; các chế độ chính sách, mục tiêu quốc gia của Nhà nước đã ban hành vì sự tiến bộ của phụ nữ có lúc, có nơi chưa triển khai đồng bộ. Mặt khác, bản thân một bộ phận phụ nữ quân đội còn tư tưởng an phận, ngại phấn đấu, làm việc cầm chừng, tư tưởng mặc cảm, tự ti vì định kiến… Thực trạng trên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song thiết nghĩ nguyên nhân chủ yếu thuộc về công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ các cấp và ý thức tự giác của một số phụ nữ về vấn đề này chưa cao.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về NNBQ vào công tác bình đẳng giới trong Quân đội

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về NNBQ vào thực hiện BĐG trong Quân đội là áp dụng sáng tạo tư tưởng đó của Hồ Chí Minh vào thực tiễn để xác định phương hướng thực hiện BĐG trong Quân đội đúng đắn, phù hợp với đặc điểm lĩnh vực quân sự, nhằm nâng cao hiệu quả công tác BĐG trong Quân đội, góp phần xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để làm được điều đó cần tập trung thực hiện đồng bộ một số định hướng cơ bản sau:

Một là, làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, tạo sự chuyển biến trong nhận thức của các chủ thể thực hiện BĐG.

Đây là định hướng giải pháp quan trọng giữ vai trò chỉ đạo toàn bộ công tác BĐG trong Quân đội hiện nay. Để tạo sự chuyển biến về nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm của các chủ thể thực hiện BĐG trong quân đội hiện nay cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau: (1) Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Quân đội và cấp ủy các cấp về vấn đề thực hiện BĐG. (2) Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị – tư tưởng trong cấp ủy, tổ chức đảng về vai trò, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện BĐG. (3) Đẩy mạnh giáo dục truyền thống, nâng cao lòng tự hào, ý chí phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng của phụ nữ quân đội.

Hai là, xác định và thực hiện đầy đủ, toàn diện nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về NNBQ vào thực hiện BĐG trong Quân đội hiện nay.

Việc xác định đầy đủ nội dung toàn diện của NNBQ và thực hiện NNBQ là vấn đề quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh và trở thành bản chất tốt đẹp của chế độ ta (bình quyền trên mọi phương diện, từ gia đình đến xã hội, cả về kinh tế, chính trị và văn hóa tư tưởng…). Để vận dụng tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh vào thực hiện BĐG trong Quân đội, cần tập trung trên các nội dung sau: (1) Thường xuyên học tập, nghiên cứu quán triệt sâu sắc, đầy đủ tư tưởng về NNBQ của Hồ Chí Minh. (2) Vận dụng sáng tạo, hiệu quả vào công tác BĐG vì sự tiến bộ của phụ nữ trong Quân đội. (3) Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tổng kết lý luận, thực tiễn bảo vệ, bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ chí Minh và tích cực, chủ động đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái.

Ba là, xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả các quy chế, quy định, hướng dẫn về công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ trong Quân đội.

Đây là định hướng giải pháp quan trọng trực tiếp góp phần bảo đảm cho công tác BĐG trong quân đội đi vào nề nếp, đạt được hiệu quả tốt nhất, là cơ sở để lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan đơn vị trong toàn quân và bản thân phụ nữ quân đội thực hiện tốt công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ quân đội trong giai đoạn hiện nay. Việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm các quy chế, quy định, hướng dẫn về BĐG phải được tiến hành thường xuyên gắn liền với việc thực hiện điều lệnh, điều lệ, các chế độ quy định, gắn với quá trình xây dựng quân đội cách mạng tinh, gọn, mạnh. Để thực hiện hiệu quả các quy chế, quy định, kế hoạch, chương trình về công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ trong quân đội hiện nay, cần thực hiện tốt những vấn đề sau đây: (1) Tiếp tục xây dựng, rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ quân đội.(2) Thường xuyên thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định, hướng dẫn, chương trình, kế hoạch và xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội trong thực hiện công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ quân đội.

Bốn là, đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện BĐG trong Quân đội.

Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ quân đội phải xuất phát từ đặc điểm của vấn đề giới, thực hiện BĐG trong Quân đội, đặc điểm của các cơ quan, đơn vị, các lĩnh vực hoạt động. Theo đó, để đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ trong quân đội cần thực hiện tốt những nội dung chủ yếu sau: (1) Đổi mới nội dung, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân về vai trò, vị trí, sự cần thiết của công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ quân đội. (2) Đổi mới nội dung, phương thức thực hiện BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ. (3) Ban hành các chủ trương, chính sách cụ thể, hướng tới giải quyết hiệu quả các vấn đề đặt ra từ thực tiễn công tác BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ quân đội.

Năm là, phát huy tính tích cực, tự giác, tự rèn luyện, tự học tập, phấn đấu vươn lên của phụ nữ Quân đội.

Đây là định hướng có tính chất giải pháp trực tiếp quyết định đến hiệu quả công tác BĐG trong quân đội, bởi họ vừa là chủ thể vừa là đối tượng trong quá trình này. Ngày nay, trong xu thế xã hội học tập, xã hội thông tin, kinh tế tri thức, vấn đề tự học, tự bồi dưỡng càng có vai trò quan trọng, giúp bản thân phụ nữ quân đội tự hoàn thiện mình, vươn lên bắt nhịp với sự phát triển không ngừng của xã hội, quân đội. Trong đó, cần thực hiện tốt một số vấn đề sau: (1) Thường xuyên giáo dục, xây dựng động cơ, xu hướng nghề nghiệp đúng đắn; (2) Tích cực học tập, tự rèn luyện không ngừng nâng cao phẩm chất năng lực; (3) Từng phụ nữ quân đội phải xây dựng kế hoạch tự học tập, tự rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực cho phù hợp với điều kiện của bản thân; (4) Xây dựng ý chí, quyết tâm tự học tập, tự rèn luyện và thường xuyên tự kiểm tra, tự đánh giá, điều chỉnh hoạt động; (5) Kế hoạch tự bồi dưỡng phù hợp với sự phát triển, yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.

Kết luận

BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc nắm vững quan điểm của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng về công tác BĐG và vì sự tiến bộ của phụ nữ; thực trạng và yêu cầu đặt ra về công tác này trong Quân đội giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng. Trong quá trình hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tại đơn vị, người cán bộ, chỉ huy đơn vị cần nhận thức đúng vai trò, yêu cầu nhiệm vụ; nắm được các mục tiêu, giải pháp để có sự lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu phù hợp, góp phần thực hiện tốt công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ và BĐG trong Quân đội, xây dựng cơ quan, đơn vị vũng mạnh toàn diện.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 313.
2, 6. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 172, 617.
3, 8, 9. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr.394, 153.
4, 5, 13. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 340, 342, 340.
7, 10, 11, 12. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 300, 128, 75, 705.
14. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 292.
15. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 187.
16. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr.106.
17. Tổng cục Chính trị. Báo cáo của Tổng cục Chính trị tại Đại hội Đại biểu phụ nữ Quân đội lần thứ VII, ngày 13/12/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ Quân đội. Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình. H. NXB Quân đội nhân dân, 2014.
2. Bộ Quốc phòng, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ. Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trong Quân đội giai đoạn 20112020. Hà Nội, 2020.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia, 2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II.  NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
5. Nghị quyết s28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 2030.
6. Tổng cục Chính trị. Công tác phụ nữ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, H. NXB Quân đội nhân dân, 2018.
ThS. Hoàng Văn Mạnh
Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng