Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước

(Quanlynhanuoc.vn) – Đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là nhân tố trực tiếp tạo ra động lực cách mạng, quyết định đến thắng lợi và thành công của cách mạng. Quan điểm về đoàn kết toàn dân tộc là hệ thống lý luận và thực tiễn được C.Mác, Ph.Ănggen, V.I.Lênin hình thành và được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển trong điều kiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng ta vận dụng sáng tạo nội dung này và đưa đến thành công trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Ảnh minh họa (internet)
Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết toàn dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

Các nhà kinh điển mác – xít ngay từ đầu luận bàn về cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã thấy vai trò, sứ mệnh của giai cấp vô sản, phát hiện vấn đề dân tộc (góc độ chính quyền vô sản) và đoàn kết dân tộc. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen đã cùng bàn về vấn đề Nhà nước vô sản với các dân tộc, trong đó xem xét vấn đề dân tộc dưới góc độ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản để tiến tới thực hiện quyền bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và khẳng định: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”1. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra yêu cầu mang tính quyết định của cuộc cách mạng vô sản là: “phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”2.

C.Mác tiếp tục khẳng định: “Một ngày nào đó, công nhân sẽ phải giành lấy chính quyền vào tay mình để thiết lập một tổ chức lao động mới; công nhân sẽ phải lật đổ cái nền chính trị cũ đang duy trì những chế độ lỗi thời”3. Để có sự bình đẳng, đoàn kết thật sự, chặt chẽ và lâu dài giữa các dân tộc, theo Ph.Ăngghen, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra bất bình đẳng, áp bức dân tộc, đó là: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”4. Những tư tưởng, quan điểm trên đây đã đặt nền móng cho việc nhận thức và giải quyết cơ bản vấn đề bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc trong cách mạng XHCN một cách rõ ràng, phù hợp với thực tiễn.

V.I.Lênin là người đầu tiên vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc vào thực tiễn cách mạng nước Nga và phát triển vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Chính V.I.Lênin coi phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Khẩu hiệu của C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại!” đã được V.I.Lênin phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Cương lĩnh nổi tiếng về vấn đề dân tộc của V.I.Lênin là kim chỉ nam cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh tự giải phóng mình khỏi áp bức dân tộc. Chính V.I.Lênin là người đặt nền móng giải quyết vấn đề dân tộc hết sức phức tạp ở nước Nga, qua đó giải quyết thỏa đáng, tạo lực lượng to lớn và sức mạnh đoàn kết dân tộc cho cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga thành công về sau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn điều kiện cách mạng Việt Nam, trong đó vấn đề đoàn kết dân tộc ở nước thuộc địa nửa phong kiến, mang đậm dấu ấn của công xã nông thôn và văn hóa làng xã. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc, Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết và khẳng định lại vai trò của đại đoàn kết dân tộc: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số Nhân dân, mà đại đa số Nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây”5.

Tư tưởng về đại đoàn kết tiếp tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm từ như: “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành công: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”6. Người nói: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”7. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra phương thức thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và những lợi ích chính đáng của Nhân dân lao động. Mẫu số chung của khối đại đoàn kết dân tộc, theo Người là chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi con người.

Để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc (ĐKTDT), Người đã đấu tranh kiên trì, bền bỉ để xóa bỏ những hiềm khích, xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc, trên cơ sở lợi ích chung thống nhất của quốc gia; đoàn kết gắn liền với thực hiện quan hệ dân tộc bình đẳng, tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ nhau; đoàn kết trên cơ sở tôn trọng văn hóa, phong tục, tập quán, kiên quyết chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi: “Đảng và Chính phủ ta luôn luôn kêu gọi các dân tộc xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”8. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết, muốn tập hợp, động viên và phát huy sức mạnh của tất cả các lực lượng, phải khắc phục bất đồng, những ngăn cách khác biệt. Cụ thể: “Cần phải xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, để cùng phục vụ Nhân dân”9. Trên thực tế, quan điểm khoan dung, độ lượng và niềm tin vào bản tính tốt đẹp của con người đã giúp Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết tất cả những người thật sự yêu Tổ quốc, yêu hòa bình, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào, tôn giáo nào, tầng lớp nào và quá khứ họ đã hợp tác với phe nào”10.

Đảng lãnh đạo đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng. Trong bối cảnh hiện nay, trước thực tiễn biến đổi của tình hình thế giới và trong nước trên các lĩnh vực, quan điểm ĐKTDT được Đảng ta quan tâm hàng đầu, coi đây là cơ sở để thực hiện mọi mục tiêu, nhiệm vụ qua các kỳ đại hội của Đảng, qua các nhiệm vụ, giai đoạn cách mạng để vận dụng nội dung về ĐKTDT.

Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta chỉ rõ: Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”11. Văn kiện Đại hội XIII, ngay từ chủ đề Đại hội, Đảng đã xác định phải “phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại” để “tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”12. Điều này cho thấy, phát huy ĐKTDT và kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một trong những vấn đề hệ trọng được quan tâm hàng đầu trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đảng ta xác định đây là bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó việc xây dựng và phát huy khối đại ĐKTDT trở thành bài học xuyên suốt, bao trùm, được thể hiện trực tiếp trong bài học thứ nhất, thứ haithứ năm, đó là “thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị”; “phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” và “Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”13. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại ĐKTDT cho thấy, Đảng luôn thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, luôn nỗ lực phấn đấu cho hạnh phúc của Nhân dân. Qua đó, cũng thấy sự thấm nhuần và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại ĐKTDT trong tình hình mới.

Nhờ phát huy được sức mạnh đại ĐKTDT, sự ưu việt của chế độ XHCN, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của Nhân dân, chúng ta đã từng bước kiểm soát, ngăn chặn được đại dịch Covid -19 bảo đảm an sinh xã hội; từng bước phục hồi nền kinh tế, nhanh chóng, bền vững ổn định đời sống, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta”14. Định hướng của Đảng ta trong những năm tới, cần tiếp tục Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam 15.

Trong mục tiêu tổng quát, Đảng ta khẳng định: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”16. Đây cũng là giá trị, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã được các nhà kinh điển Mác-xít và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu mong muốn. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện”17.

Một số định hướng, giải pháp thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại ở nước ta hiện nay

Một là, phát huy vai trò của hệ thống chính trị và thực hiện tốt chính sách xã hội đối với các giai tầng trong xây dựng khối ĐKTDT. Trước hết, luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho khối đại ĐKTDT luôn giữ được định hướng chính trị phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng khối đại ĐKTDT, chú trọng đoàn kết dân chủ trong Đảng, là hạt nhân để phát huy dân chủ trong các tổ chức khác và khối đại ĐKTDT.

Vai trò quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại ĐKTDT là đặc biệt quan trọng, Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của Nhân dân. Phát huy vai trò của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”18. Do đó, cần thường xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.

Đối với Mặt trận Tổ quốc, “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân chủ, xây dựng đồng thuận xã hội”19. Bên cạnh đó, cần tập trung chú trọng “Phát huy tính tích cực chính trị – xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội”20, đây là yêu cầu, nội dung quan trọng nhằm khơi dậy sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Đồng thời, tiếp tục triển khai và thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XIII) và Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) về xây dựng chỉnh đốn Đảng và đổi mới hệ thống chính trị một cách thực chất, hiệu quả.

Khối đại ĐKTDT chỉ thực sự vững mạnh khi mỗi thành tố cấu thành nên nó cũng không ngừng được củng cố, phát triển ngày càng lớn mạnh. Đảng ta chủ trương phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dântrong quá trình phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Đối với thế hệ trẻ, cần tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Phát huy tính tích cực chính trị – xã hội của cựu chiến binh, cán bộ công an hưu trí trong xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc để phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại.

Hai là, phát huy dân chủ XHCN, quyền làm chủ của Nhân dân làm cơ sở thực hiện ĐKTDT. Dân chủ là điều kiện, tiền đề của đại đoàn kết trên cơ sở hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội. Do đó, để xây dựng khối đại ĐKTDT cần phải tiếp tục thực hành và “phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”21. Tiếp tục củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”22.

Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ, theo tinh thần Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân. Nghị quyết Đại hội XIII đã bổ sung, cụ thể thêm một bước tư tưởng phục vụ Nhân dân trong đường lối chủ trương của Đảng. “Dân thụ hưởng chính là sự phát triển về chủ trưởng, quan điểm của Đảng, có ý nghĩa thiết thực, quan trọng. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng, Nhà nước luôn luôn thực hiện quan điểm nhất quán là “dân là gốc”, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”23. Theo đó, xây dựng và phát huy nguồn lực con người là động lực quan trọng, yếu tố sống còn, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, Nhân dân được thụ hưởng thành quả của quá trình phát triển không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức mạnh và nguồn lực nhân dân trong quá trình đưa chủ trương quyết sách của Đảng vào cuộc sống.

Ba là, giải quyết tốt các mối quan hệ, thu hẹp những khác biệt trong xã hội thực hiện mục tiêu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng ta không chỉ đặt vấn đề “phát huy nội lực” và kết hợp phát huy nội lực với tranh thủ tối đa mọi thuận lợi từ bên ngoài”, mà còn bổ sung thêm mệnh đề: “Phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”. Rõ ràng, sức mạnh của dân tộc không chỉ là sức mạnh nội lực và không chỉ bó hẹp ở sức mạnh bên trong, bởi nó còn bao gồm cả một phần ngoại lực cần được huy động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là nguồn lực to lớn của hàng triệu người Việt Nam ở nước ngoài, vốn đã được coi là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”24. Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…”25.

Không chỉ quan tâm hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có điều kiện phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội ở nước sở tại thông qua việc nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh, mà còn phải “tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia – dân tộc, có đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”26. Bên cạnh đó, phát huy mọi nguồn lực quốc tế, nhất là khoa học – công nghệ, các nguồn vốn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, các tổ chức và cá nhân, tạo điều kiện hợp tác thuận lợi và môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước.

Ở nước ta hiện nay, cần tập trung giải quyết để củng cố sức mạnh của khối đại ĐKTDT dựa trên mối quan hệ dân tộc, tôn giáo, mối quan hệ với người Việt Nam ở nước ngoài. Trong quan hệ dân tộc, Đảng xác định luôn bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Cùng với việc tăng cường quan tâm phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, giảm thiểu dần khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, Đảng ta cũng xác định rõ phải kiên quyết chống kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại ĐKTDT. Đồng thời, “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”,… “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”27. Việc giải quyết tốt các mối quan hệ này còn là cơ sở trực tiếp góp phần củng cố sức mạnh của khối đại ĐKTDT, là cơ sở để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá khối đại ĐKTDT ở nước ta hiện nay.

Quan điểm về ĐKTDT là một quan điểm, chủ trương lớn có ý nghĩa quan trọng hàng đầu cần được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vận dụng sáng tạo và tiếp tục thực hiện trong suốt những năm tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở lý luận, tình hình thực tiễn cách mạng và truyền thống ĐKTDT của Nhân dân, việc vận dụng quan điểm sẽ là nguồn động lực cách mạng to lớn có ý nghĩa quyết định thắng lợi đối với sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay.

Chú thích:
1. Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. Tập 1. H. NXB Sự thật, 1980, tr. 565.
2, 4. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, 2002, tr. 624, 624.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. Tập 18. H. NXB Chính trị quốc gia, 2002, tr. 218.
5, 9.  Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật,  2011, tr. 244, 244.
6. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 119.
7, 8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật,  2011, tr. 417, 371.
10. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 119 – 120.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII . H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2016, tr. 70.
12, 13, 14, 15, 16, 18, 19, 20, 21, 22, 26. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 57, 98, 78, 110, 57, 118, 173, 172, 173, 173, 171, 171.
24, 25. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 245, 156.
17, 23. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. https://vnanet.vn, ngày 16/5/2021.
TS. Lưu Duy ToànThS. Đặng Văn Dũng
Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng