Thống nhất nhận thức về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

(Quanlynhanuoc.vn)Ngày 09/11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Ðây là nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đến năm 2025 và 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bài viết tập trung phân tích và làm rõ 8 đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhấn mạnh 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần đẩy mạnh thực hiện trong thời gian tới.
Ảnh minh họa (internet).

Nhà nước pháp quyền (NNPQ) không phải là một kiểu nhà nước trong lịch sử xã hội loài người mà là một phương thức tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của Nhà nước và tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Với tính chất là những giá trị phổ quát, cao quý được thừa nhận chung bởi nền văn minh nhân loại, NNPQ là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ, tiến bộ. Ngoài các giá trị phổ biến, NNPQ còn bao hàm các giá trị đặc thù của mỗi một quốc gia, dân tộc. Việc thừa nhận tính đặc thù của NNPQ có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng.

1. Mỗi một quốc gia, dân tộc tùy thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế – xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng một mô hình NNPQ phù hợp. Từ lý luận và thực tiễn xây dựng, hoàn thiện NNPQ xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, hiện nay cần nhận thức thống nhất về các đặc trưng cơ bản của NNPQ XHCN Việt Nam. Theo đó, NNPQ XHCN Việt Nam có 8 đặc trưng cơ bản1, cụ thể:

Một là, NNPQ XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân lập nên thông qua chế độ bầu cử. Trong Nhà nước ấy, dân chủ được xem là bệ đỡ của quyền lực nhân dân, các hình thức của dân chủ được chú trọng triển khai, bảo đảm hiệu quả. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quan điểm này là sự hiến định của Hiến pháp năm 2013 tại Điều 6 và Điều 28. Với các hình thức đa dạng, Nhân dân có thể tham gia một cách tích cực vào quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo các quy định của pháp luật. Nhà nước phải nỗ lực hết mình, vì Nhân dân phục vụ, đồng thời, hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân đạt hiệu quả trên thực tế.

Thời gian qua, trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, Nhà nước ta đã thực hiện tốt việc trưng cầu ý dân về các vấn đề sửa đổi, ban hành chính sách, pháp luật; quyền chất vấn của cử tri đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở… Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được phát huy trên thực tế.

Hai là, NNPQ XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là quan điểm, vừa là nguyên tắc hiến định, vừa là đặc trưng của NNPQ XHCN ở nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, được lịch sử lựa chọn, được Nhân dân tin tưởng, trao gửi trọng trách và được khẳng định bằng năng lực, hiệu quả lãnh đạo trên thực tế. Đảng lãnh đạo trực tiếp, mọi mặt hoạt động của bộ máy nhà nước. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về quyết định của mình. Hoạt động giám sát của Nhân dân là sự thể hiện cụ thể của việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng các phương thức: Đảng đề ra Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết, chiến lược, kế hoạch về các vấn đề kinh tế – xã hội… Đảng lãnh đạo thông qua công tác tổ chức, cán bộ và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng lãnh đạo xã hội bằng công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và vận động Nhân dân, Đảng lãnh đạo bằng sự nêu gương, làm gương, đi đầu trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là đặc trưng quan trọng, tạo nên sự đặc sắc riêng biệt của NNPQ XHCN Việt Nam so với các NNPQ tư sản trên thế giới.

Ba là, trong NNPQ XHCN Việt Nam các quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật.

Công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thực thi quyền con người là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ con người, cho con người, tất cả vì con người. Điều này, tiếp tục được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”2.

Với mong muốn đóng góp hơn nữa vào các nỗ lực chung của thế giới nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, Việt Nam đã ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2023 – 2025. Việt Nam là ứng cử viên duy nhất được ASEAN đề cử. Thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều đóng góp có giá trị vào sự tiến bộ của nhân loại trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Nhiệm kỳ thành viên Hội đồng nhân quyền 2014 – 2016 đã đánh dấu bước tiến mới của Việt Nam trong việc nỗ lực triển khai các chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Đến nay, nước ta đã tham gia 7/9 công ước quốc tế chủ chốt về quyền con người, Việt Nam cam kết thực hiện và coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của Nhà nước. Cùng với việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia bảo đảm tính khả thi, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và tương thích với pháp luật quốc tế. Chỉ tính riêng từ năm 2019 – 12/2022, Quốc hội đã thông qua 49 luật, trong đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quyền con người, quyền công dân.

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, phải kể đến, như: giải quyết các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, xóa đói, giảm nghèo, phổ cập giáo dục, đem lại cơ hội phát triển cho mọi người dân, phấn đấu không để ai bị bỏ lại phía sau… Vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ; phụ nữ được bình đẳng trong chính trị, được tăng cường tham gia vào các vị trí quản lý, lãnh đạo các tổ chức chính trị, cơ quan hành chính sự nghiệp… Đặc biệt, liên quan đến dịch Covid – 19, Đảng và Nhà nước đã rất nỗ lực ngoại giao vắc- xin để tiêm miễn phí cho người dân, chủ động “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid – 19” ổn định phát triển kinh tế – xã hội. Đây là một trong những minh chứng sinh động, quan trọng góp phần lan tỏa, khẳng định uy tín, vị thế, bản chất tốt đẹp của NNPQ XHCN Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam đẩy mạnh đối thoại nhân quyền với các nước trên thế giới, như: Mỹ, Thụy Sỹ, Ốt-xtrây-li-a, Na Uy, Liên minh châu Âu (EU)… Đồng thời, nghiêm túc thực hiện cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc.

Bốn là, NNPQ XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và yêu cầu thượng tôn pháp luật trong đời sống xã hội.

NNPQ XHCN Việt Nam là Nhà nước hợp hiến, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật. Trong đó, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia. Sự hiện diện của Hiến pháp trong mỗi quốc gia là biểu hiện rõ nét nhất của nền dân chủ và là cơ sở cho sự tồn tại của NNPQ. Hiến pháp là sản phẩm và sự tập trung trí tuệ, ý chí của toàn thể Nhân dân, do Nhân dân biểu quyết thông qua. Vì vậy, việc đề cao giá trị của Hiến pháp và tuyệt đối tuân thủ Hiến pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như trong đời sống xã hội là một yêu cầu quan trọng trong NNPQ.

Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Thượng tôn pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, không có vùng cấm, không ai được đứng trên pháp luật. Các cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ của mình công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình với Nhân dân. Do đó, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.

Việc thượng tôn pháp luật có vị trí, vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là điều kiện để Nhân dân có thể thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình với hoạt động của các cơ quan. Tính thượng tôn pháp luật còn được thể hiện một cách nhất quán thông qua nhiều nguyên tắc mới của pháp luật như nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo đó, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Như vậy, nền tảng của NNPQ là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, nhân đạo. Pháp quyền dưới chế độ XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân. Nhà nước với hệ thống pháp luật đầy đủ, thể hiện ý chí của Nhân dân, chủ thể của quyền lực chính trị. Pháp luật trong Nhà nước ta bảo đảm tính công khai, minh bạch, khả thi, hiệu quả, trở thành công cụ, chuẩn mực trong quản lý, điều hành và trong quan hệ tương tác giữa các chủ thể trong xã hội.

Năm là, NNPQ XHCN Việt Nam là Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đây vừa là đặc trưng, vừa là quan điểm, vừa là nguyên tắc hiến định có tính chất chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình xây dựng đất nước. NNPQ XHCN Việt Nam tổ chức quyền lực nhà nước với tính chất một chỉnh thể thống nhất, không “phân chia” quyền lực theo thuyết “tam quyền phân lập” như nhà nước tư sản ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức và một số nước phương Tây. Quyền lực nhà nước là thống nhất nghĩa là cả ba nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều thuộc về chủ thể tối cao là Nhân dân. Quyền lực nhà nước thống nhất được xác định ở việc thống nhất trong việc phấn đấu hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện; hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn “dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, không để ai bị bỏ lại phía sau khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm3. Trong đó, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích với cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.

Quyền lực nhà nước không chỉ thống nhất mà còn có sự phân công, phối hợp hợp lý, nhịp nhàng trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hiến pháp năm 2013 đã phân công rất rõ, quyền lập pháp được trao cho Quốc hội, quyền hành pháp trao cho Chính phủ và quyền tư pháp trao cho Tòa án thực hiện. Đồng thời, phối hợp tạo cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan khi thực hiện các nhánh quyền này. Trong Nhà nước XHCN Việt Nam, cơ chế kiểm soát được thể hiện rõ trong hoạt động giám sát của Quốc hội với Chính phủ, với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đặc biệt, với sự hình thành hai cơ quan: Tổng Kiểm toán nhà nước và Hội đồng bầu cử quốc gia trong Hiến pháp năm 2013. Kiểm toán nhà nước có nhiệm vụ giúp Quốc hội kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118). Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 117).

Sáu là, NNPQ XHCN Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán.

Đây là đặc trưng thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa NNPQ tư sản với NNPQ XHCN, trong đó có NNPQ XHCN Việt Nam. Pháp luật trong NNPQ XHCN Việt Nam mang bản chất Nhân dân sâu sắc, thể hiện đầy đủ và rõ nét tính dân chủ, công bằng và nhân đạo. Chúng ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm để Nhân dân được tham gia góp ý trực tiếp trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; nội dung của luật thực sự xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, hướng tới việc bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Hệ thống pháp luật ấy thể hiện sự công bằng đối với tất cả các chủ thể trong xã hội, công bằng trong việc hưởng quyền, công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ cũng như công bằng trong việc gánh chịu hậu quả pháp lý do hành vi vi phạm pháp luật gây ra.

Bên cạnh đó, cần gắn hoạt động xây dựng pháp luật với tổ chức thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm tính “thượng tôn pháp luật”. Xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật với quan điểm “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Bảy là, độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Đây là một đặc trưng của NNPQ XHCN Việt Nam, đồng thời là một nguyên tắc hiến định quan trọng. Nguyên tắc này đã gián tiếp thể hiện bản chất tốt đẹp của NNPQ XHCN Việt Nam là Nhà nước do Nhân dân làm chủ, Nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động xét xử. Tính độc lập của Tòa án thể hiện ở việc Tòa án phải có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư, khách quan, công tâm theo đúng quy định của pháp luật, không chịu sự ép buộc, can thiệp, chỉ đạo từ bất cứ cá nhân hay các cơ quan quyền lực nhà nước khác. Sự độc lập của Tòa án cũng đòi hỏi cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp vào quá trình xét xử một cách vô cớ. Chỉ có các tòa án cấp trên theo quy trình tố tụng mới có quyền xét lại các phán quyết của Tòa án cấp dưới. Tòa án chỉ độc lập khi thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật, tự mình đưa ra quyết định dựa trên những chứng cứ đã được thu thập và tình tiết xác thực đã được thẩm tra tại phiên tòa, không kết luận dựa trên ý chí chủ quan, cảm tính.

Khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán. Thẩm phán không được phép chỉ đạo hội thẩm trong việc định tội danh, quyết định hình phạt. Hội thẩm chủ động, tích cực và có trách nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm, không được có thái độ ỷ lại thẩm phán hoặc mặc kệ thẩm phán. Sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm xét xử là yếu tố quan trọng quyết định bản án được tuyên khách quan, công tâm, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đây là cơ sở bảo đảm Hiến pháp và pháp luật được thực thi nghiêm túc bởi những người thi hành pháp luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời là yêu cầu không thể thiếu của một NNPQ đích thực.

Tám là, NNPQ XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự chủ, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc luôn là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của đất nước. Là quốc gia yêu chuộng hòa bình, thời gian qua, Việt Nam đã tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các đảng, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; góp phần tích cực vào sự hồi phục của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vào việc củng cố phong trào không liên kết, vào cuộc đấu tranh chung của Nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội. Đường lối đối ngoại của Đảng ta và những thành tựu đổi mới của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao. Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực, đầy trách nhiệm, tâm huyết vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.

Song song với việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, Việt Nam phải tuyệt đối tôn trọng và bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc và các công ước quốc tế mà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên. Thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, nhanh chóng, với nhiều biến động to lớn, khó dự báo, tác động nhiều mặt đến môi trường an ninh và phát triển của đất nước ta. Trước bối cảnh đó, đòi hỏi Việt Nam phải nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, “dĩ bất biến ứng vạn biến”; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đồng thời, cần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam và khát vọng phát triển đất nước bền vững, hùng cường và thịnh vượng.

2. Từ lý luận và thực tiễn xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, thời gian tới, cần đẩy mạnh quyết liệt triển khai 10 nhóm nhiệm vụ và giải pháp đã được nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, cụ thể:

(1) Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về NNPQ XHCN Việt Nam.

(2) Bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

(3) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.

(4) Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội.

(5) Tiếp tục thực hiện tốt thiết chế Chủ tịch nước theo Hiến pháp.

(6) Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

(7) Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

(8) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

(9) Tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

(10) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam.

Chú thích:
1. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 28.
3. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5/2021, tr. 10.
TS. Nguyễn Thị Thanh Nga
Học viện Chính trị Công an nhân dân