Quyền tiếp cận thông tin về đất đai trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản của con người, đã được khẳng định trong các văn bản quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện quyền này chưa được bảo đảm ở một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đất đai. Bài viết trình bày các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện quyền tiếp cận thông tin về đất đai; đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách bảo đảm thực hiện tốt quyền tiếp cận thông tin đất đai nói chung và tiếp cận thông tin trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói riêng.
Ảnh minh họa (internet).
Quy định về quyền tiếp cận thông tin quá trình lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế nước ta tiếp tục hội nhập sâu rộng với thế giới, nhu cầu sử dụng đất (SDĐ) và thị trường bất động sản ngày càng trở nên sôi động, vì vậy, việc lập quy hoạch, kế hoạch (QHKH) SDĐ nhằm tạo ra các phân khu chức năng thu hút đầu tư, sản xuất – kinh doanh là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, trong quá trình lập và thực hiện quy hoạch SDĐ, sự tác động bởi các quyết định của cơ quan nhà nước (CQNN) có thẩm quyền lại có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân trong khu vực có quy hoạch SDĐ sử dụng vào các mục đích khác nhau để thực hiện dự án. Chính vì lẽ đó, công dân có quyền được biết, được tiếp cận và nắm bắt các thông tin có liên quan đến lập và thực hiện QHKH SDĐ.

Tại Điều 28 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rõ việc Nhà nước sẽ phải thực hiện một số công việc cụ thể nhằm bảo đảm trách nhiệm xây dựng và cung cấp thông tin đất đai. Như vậy, so với Luật Đất đai năm 2003, pháp luật đất đai hiện hành đã ghi nhận một điều khoản riêng biệt để quy định trách nhiệm của các CQNN có thẩm quyền trong việc cung cấp thông tin đất đai cho tổ chức, cá nhân. Điều này, một mặt cho thấy sự thay đổi trong tư duy quản lý nhà nước hiện nay, thay cơ chế “xin – cho” như trước đây bằng việc ghi nhận trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước đối với công dân trong vấn đề này; mặt khác, việc luật hóa quy định này còn thể hiện tầm quan trọng của việc công khai, minh bạch hóa thông tin, góp phần thực hiện dân chủ, công bằng trong quá trình quản lý, sử dụng và phân phối đất đai tại Việt Nam.

Từ quy định chung mang tính nguyên tắc tại Điều 28 Luật Đất đai năm 2013, quyền tiếp cận thông tin (QTCTT) của công dân trong quá trình lập và thực hiện, QHKH SDĐ được ghi nhận chi tiết trong từng giai đoạn.

Thứ nhất, trong giai đoạn lập QHKH SDĐ

Tại khoản 6 Điều 35 Luật Đất đai năm 2013 quy định ngay từ nguyên tắc lập QHKH SDĐ phải dựa trên nguyên tắc dân chủ và công khai. Nguyên tắc này, được thể hiện rõ hơn tại Điều 43 về nội dung lấy ý kiến về QHKH SDĐ. Như vậy, khẳng định rằng QTCTT của người dân được thể hiện rất rõ ràng và ngay từ bước đầu tiên trong quá trình lập QHKH SDĐ.

Trong giai đoạn này, Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh và cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân về QHKH SDĐ ở từng cấp. Hình thức để người dân có thể nắm bắt thông tin và phản hồi ý kiến của mình khá đa dạng và tùy theo đặc điểm của từng cấp. Đối với QHKH SDĐ cấp quốc gia, cấp tỉnh sẽ tiến hành thông qua hình thức công khai thông tin về nội dung của QHKH SDĐ trên trang thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh. Trong khi đó, việc lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân về QHKH SDĐ cấp huyện được thực hiện thông qua hình thức tổ chức hội nghị, lấy ý kiến trực tiếp và công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện. Thông qua các hình thức công khai thông tin này, Nhân dân có thể tiếp cận được những thông tin chính thống, chính xác, minh bạch trong quá trình nhà nước lập QHKH SDĐ; từ đó, họ có thể biết được vị trí, diện tích đất thực hiện công trình, dự án SDĐ mà chủ động sắp xếp đời sống sinh hoạt, lao động, sản xuất của mình trong tương lai.

Tuy nhiên, về đối tượng lấy ý kiến theo quy định hiện hành thiết nghĩ còn có phần chưa thỏa đáng. Lý giải cho điều này là bởi, ngoài những hộ dân chịu ảnh hưởng trực tiếp thuộc vùng quy hoạch thực hiện dự án thì một số người dân khác sống trong khu vực này có thể chịu tác động ít nhiều từ dự án do sự thay đổi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội, môi trường… Do đó, những đối tượng này cũng nên biết được một số thông tin cần thiết và cơ bản để chủ động được quá trình lao động, sinh hoạt, sản xuất – kinh doanh. Ngoài ra, Luật cũng quy định cụ thể trách nhiệm chính trong việc công khai phương án này thuộc về tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng cũng như UBND cấp xã nơi có dự án quy hoạch SDĐ có nghĩa vụ phối hợp để hoàn thành phần công việc này.

Thứ hai, trong giai đoạn thực hiện quy hoạch SDĐ

Đây là một trong những giai đoạn quan trọng để Nhà nước và các nhà đầu tư và tiến hành các hoạt động khai triển khai thực hiện dự án theo QHKH SDĐ. Đồng thời, cũng là giai đoạn có ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến đời sống của người dân có đất thuộc khu vực quy hoạch thực hiện dự án.

Tại Điều 48 Luật Đất đai năm 2013 quy định việc công bố công khai QHKH SDĐ. Theo đó QHKH SDĐ cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện sau khi được CQNN có thẩm quyền quyết định, phê duyệt phải được công bố công khai. Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm công bố công khai QHKH SDĐ cấp quốc gia tại trụ sở cơ quan và trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường; UBND cấp tỉnh có trách nhiệm công bố công khai QHKH SDĐ cấp tỉnh tại trụ sở cơ quan và trên cổng thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh; UBND cấp huyện có trách nhiệm công bố công khai QHKH SDĐ cấp huyện tại trụ sở cơ quan và trên cổng thông tin điện tử của UBND cấp huyện và công bố công khai nội dung QHKH SDĐ cấp huyện có liên quan đến xã, phường, thị trấn tại trụ sở UBND cấp xã. Thời gian công bố công khai được thực hiện trong 30 ngày kể từ có quyết định phê duyệt của CQNN có thẩm quyền. Việc công khai được thực hiện trong suốt kỳ QHKH SDĐ.

Thông qua các quy định trên, có thể thấy, công bố, công khai QHKH SDĐ là thủ tục bắt buộc thực hiện và giữ vai trò tiền đề để thực hiện các bước tiếp theo. Ngoài ra, công khai QHKH SDĐ còn là bước chuẩn bị quan trọng về mặt vật chất và tinh thần đối với người dân trong khu vực có đất nằm trong khu vực quy hoạch thực hiện dự án, giúp họ chủ động hơn để thu xếp mọi mặt trong đời sống sinh hoạt, lao động và sản xuất.

Như vậy, có thể nhận thấy, trong giai đoạn này, người dân có thể tiếp cận được thông tin chính thức về phương án QHKH SDĐ thông qua hai con đường trực tiếp và gián tiếp thay vì chỉ thực hiện niêm yết như các quy định trước đây. Đây là một điểm mới, tiến bộ của Luật Đất đai năm 2013 trong việc công khai, minh bạch và dân chủ hóa trong quá trình CQNN quản lý đất đai.

Thực trạng thực hiện quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Thực trạng thực hiện QTCTT về đất đai đối với hồ sơ được đăng tải trên trang thông tin điện tử.

Theo nghiên cứu Đánh giá việc công khai thông tin QHKH SDĐ cấp huyện và bảng giá đất cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022 cho thấy: tại Việt Nam đến tháng 02/2023 thông qua việc rà soát cổng thông tin điện tử chính thức của 63 tỉnh, thành phố và 705 quận, huyện, thị xã trên toàn quốc. Mức độ công khai thông tin đất đai của chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện được đánh giá dựa trên 5 tiêu chí bao gồm: (1) Công khai thông tin; (2) Khả năng tìm kiếm thông tin; (3) Tính kịp thời của thông tin; (4) Tính đầy đủ của thông tin (đối với quy hoạch SDĐ cấp huyện và kế hoạch SDĐ cấp huyện); (5) Khả năng sử dụng thông tin (dễ đọc, dễ hiểu và đọc được bằng các phần mềm thông dụng). Tại nghiên cứu này, cho thấy kết quả rà soát cổng/trang thông tin điện tử: có 345/705 đơn vị huyện đã đăng tải Quy hoạch SDĐ thời kỳ 2021- 2030 trên cổng/trang thông tin điện tử; có 389/705 đơn vị huyện đã đăng tải Kế hoạch SDĐ năm 2022 trên cổng/trang thông tin điện tử; có 337/704 đơn vị huyện công khai kế hoạch SDĐ năm 2021 trên trang thông tin điện tử của UBND cấp huyện trong năm 2021; có 389/705 đơn vị huyện công khai kế hoạch SDĐ năm 2022 trên trang thông tin điện tử của UBND cấp huyện trong năm 20221.

Với các trang công khai QHKH SDĐ, lượng truy cập không lớn, chưa thu hút được sự chú ý và tiếp cận của người dân, quá trình đánh giá kết quả nghiên cứu cho thấy, các thông tin về quy hoạch và kế hoạch SDĐ thường được ban hành chậm hơn so với quy định. Cụ thể:

(1) Hồ sơ kế hoạch SDĐ phần lớn không được đăng tải đầy đủ, rải rác hoặc đăng tải ở nhiều chuyên mục và thiếu thống nhất.

(2) Sử dụng các từ viết tắt không đúng quy chuẩn, tệp tin nén, định dạng tệp tin không phổ biến (bản đồ định dạng DGN), chức năng tìm kiếm chưa hiệu quả, công cụ tìm kiếm không trả về kết quả cần tìm.

(3) Nhiều địa phương có phần mềm tích hợp quy hoạch tuy nhiên không hiển thị cơ sở pháp lý.

(4) Hiện tượng con dấu có thể tách rời khỏi văn bản, phóng to thu nhỏ, xóa

(5) Người dùng bị yêu cầu đăng nhập tài khoản mới xem được văn bản đính kèm hoặc đăng tải trên Google Drive nhưng không cấp quyền truy cập cho công dân.

(6) Ngày phê duyệt quyết định mâu thuẫn ngày đăng tải và ngày ban hành thông báo công bố công khai

Quyền tiếp cận thông tin bằng cách gửi yêu cầu trực tiếp theo mẫu quy định.

Theo Nghiên cứu đánh giá việc công khai thông tin QHKH SDĐ cấp huyện và bảng giá đất cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022, có 561 yêu cầu cung cấp thông tin được gửi tới  140 đơn vị huyện và kết quả như sau2:

Kết quả phản hồi Năm 2021 Năm 2022
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Cung cấp 98 17.5% 108 19.3%
Từ chối 15 2.7% 6 1.1%
Không phản hồi 402 71.7% 415 73.9%
Khác 46 8.2% 32 5.7%

Phân tích các yêu cầu và phản hồi của năm 2022 cho thấy:

(1) Đối với 108 phản hồi cung cấp: có 7 cơ quan phản hồi với Phiếu giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin theo mẫu số 3 Nghị định số 13/2018/NĐ-CP với 45 cơ quan đính kèm công văn trả lời.

(2) Đối với 6 phản hồi từ chối với các nguyên nhân sau: thông tin đã được công khai theo quy định; hông đủ cơ sở để xem xét; đơn gửi sai mục đích yêu cầu; thư gửi sai mẫu theo Thông tư số 34/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường; yêu cầu có giấy giới thiệu mới cung cấp; không đưa lý do cụ thể, yêu cầu gửi tới phòng Tài nguyên và Môi trường huyện để tìm hiểu. Hình thức từ chối gồm: 2 phản hồi từ chối bằng văn bản; 1 phản hồi từ chối thông báo trả lời; 4 phản hồi từ chối qua điện thoại.

(3) Đối với 32 phản hồi khác: gồm thông báo chuyển yêu cầu qua đơn vị khác để giải quyết; trả lời sẽ gửi tài liệu, tuy nhiên, đến ngày 21/02/2023 chưa có phản hồi nào mới; trả lời chung chung đã công khai tại trụ sở hoặc trên cổng TTĐT; đề nghị người yêu cầu tới tham gia cuộc họp giải quyết yêu cầu.

Qua thực tế, hầu hết công chức đều có thái độ lịch sự, trừ một người có thái độ không thân thiện đối với người dân; công chức gửi văn bản phản hồi qua đường bưu điện nhưng bị trả lại đã nỗ lực liên hệ qua email cung cấp thông tin cho người yêu cầu; đa số các cơ quan gửi đầy đủ hồ sơ công khai thay vì chỉ gửi duy nhất văn bản quyết định phê duyệt; một số công chức liên hệ và tương tác với công dân qua Zalo; không có hiện tượng thu phí như năm 2021, công chức có giải thích về chi phí nếu scan tài liệu gửi lại bản cứng cho người yêu cầu; nhiều công chức không sử dụng hòm thư điện tử công vụ để phản hồi công dân.

Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định về quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Để bảo đảm quyền của người dân trong lĩnh vực này, thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây:

Một là, bổ sung thủ tục cung cấp thông tin theo yêu cầu của người dân theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 vào các bộ thủ tục hành chính hiện hành của tất cả các ngành và lĩnh vực (trong đó có lĩnh vực đất đai); bổ sung quy định về thời điểm phê duyệt quy hoạch SDĐ cấp huyện trong quy định của pháp luật về đất đai để bảo đảm tính kịp thời và đồng bộ của các QHKH SDĐ; cần quy định trong Luật Đất đai cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành những quy định cụ thể về các thông tin phải được công khai, các bước trong quy trình để lấy ý kiến người dân trong QHKH SDĐ… Các thông tin trên phải thường xuyên được cập nhật để người dân truy cập khi cần thiết.

Hai là, quy định ghi rõ cơ quan nắm giữ thông tin đất đai có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người dân có yêu cầu; cần có các quy định cụ thể về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong việc không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông không chính xác, sai lệch hoặc có hành vi nhũng nhiễu, tham nhũng khi người dân có nhu cầu được tiếp cận các thông tin có liên quan; quy định duy trì lâu dài thông tin đất đai đã được đăng tải lên cổng/trang TTĐT của CQNN trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy phát triển chính phủ số; quy định yêu cầu xây dựng giao diện, chuyên mục và cách thức công khai thông tin trên cổng thông tin điện tử của chính quyền một cách thống nhất, đồng bộ trên toàn quốc.

Ba là, tăng cường, phát triển các dịch vụ trực tuyến cung cấp thông tin trong lĩnh vực QHKH SDĐ. Hiện nay, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai đã có những quy định cụ thể về điều kiện của tổ chức, cá nhân hoạt động xây dựng hệ thống thông tin đất đai. Như vậy, trong tương lai gần, bên cạnh các thông tin được cung cấp bởi các CQNN có thẩm quyền, người dân còn có thêm nhiều kênh thông tin khác để tiếp cận trong lĩnh vực đất đai nói chung và mảng thu hồi đất nói riêng.

Bốn là, tiếp tục phổ biến và tập huấn Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, nội dung tiếp cận thông tin đất đai trong Luật Đất đai với cán bộ, công chức thuộc khối CQNN và người dân; xây dựng chuyên mục “Tiếp cận thông tin” trên cổng/trang thông tin điện tử của chính quyền các cấp; hệ thống hóa các thông tin công khai trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử theo quy định để người dân có thể sử dụng từ mọi nơi, mọi lúc; thêm các tính năng hỗ trợ tìm kiếm thông tin trên cổng/trang thông tin điện tử của chính quyền các cấp, đảm bảo thân thiện với mọi đối tượng người dùng, trong đó có người cao tuổi, người khuyết tật và đồng bào dân tộc thiểu số.

Năm là, trách nhiệm của người cung cấp thông tin là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến QTCTT của người dân. Do vậy, cần phải đẩy mạnh, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người có trách nhiệm cung cấp thông tin là điều cần thiết.

Thông tin là nhu cầu cần thiết của mỗi con người và các thông tin liên quan trực tiếp đến đời sống, sản xuất – kinh doanh của người dân có ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của họ như các vấn đề về QHKH SDĐ lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Đã đến lúc việc tiếp cận thông tin trong lĩnh vực này cần phải thực hiện nghiêm túc, kỷ cương, có chiều sâu và mang lại hiệu quả thiết thực. Thực hiện tốt QTCTT trong lĩnh vực QHKH SDĐ không chỉ bảo đảm quyền lợi của người dân mà còn đóng vai trò phục vụ cho công tác quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, hoàn thành mục tiêu phấn đấu phát triển hạ tầng thông tin quốc gia hiện đại, đáp ứng yêu cầu của mọi công dân trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay.

Chú thích:
1. Tác giả sử dụng số liệu từ kết quả:“Nghiên cứu thực chứng hướng tới thúc đẩy việc tiếp cận thông tin đất đai của người dân”do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) tại Việt Nam và Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW) phối hợp thực hiện từ tháng 7/2021 – 6/2022.
2. Tác giả sử dụng số liệu từ kết quả: Nghiên cứu Đánh giá việc công khai thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện và bảng giá đất cấp tỉnh trên môi trường điện tử năm 2022.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Thị Hồng Nhung. Bảo đảm pháp lý quyền được thông tin của công dân trong quản lý nhà nước về đất đai. Luận văn Thạc sỹ Luật học, 2010.
2. Trung tâm nghiên cứu Chính sách và Phát triển (DEPOCEN). Báo cáo khảo sát tình hình công khai thông tin trong quản lý đất đai theo yêu cầu của Ngân hàng Thế giới (2010 – 2013). Hà Nội, 2013.
3. Nguyễn Minh Thuyết. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Khoa học và Công nghệ năm 2015.
4. Bùi Thị Hải. Quyền tiếp cận thông tin trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, 2016.
TS. Nguyễn Khánh Ly
Học viện Hành chính Quốc gia