Nguyễn Thế Linh
Bảo hiểm xã hội quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo hiểm xã hội là một trong những trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội, có vai trò quan trọng trong công tác chăm lo, bảo vệ và phát triển con người, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội, hướng tới sự phát triển bền vững, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Từ khoá: Bảo đảm an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, phát triển con người, tiến bộ, phát triển bền vững.
1. Đặt vấn đề
Chính sách an sinh xã hội trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thông qua việc ban hành các nghị quyết của Trung ương, chỉnh sửa pháp luật về bảo hiểm xã hội cho phù hợp với quan điểm bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, coi thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước, thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của nền quản trị quốc gia.
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận từ công cuộc đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội, từ phụ thuộc vào ngân sách nhà nước trở thành quỹ độc lập với ngân sách nhà nước và bao phủ lên số đông người lao động thì việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội, trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu mong muốn của người dân, chưa tạo sự hấp dẫn khuyến khích để đông đảo nhân dân tham gia, chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế – xã hội và chưa có các dự báo để việc điều chỉnh chính sách được kịp thời thích ứng với các rủi ro xã hội mới phát sinh. Số người tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp so với mức tiềm năng; trong khi số người thụ hưởng bảo hiểm xã hội tăng nhanh, thêm vào tình trạng vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ngày càng tăng dẫn đến quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.
Chính sách bảo hiểm xã hội chưa phổ quát rộng đến các tầng lớp nhân dân lao động, chưa thực sự gắn với thị trường lao động, mới chỉ tập trung chủ yếu vào khu vực chính thức, chưa có chính sách khuyến khích phù hợp cho khu vực phi chính thức (nơi người lao động dễ bị tổn thương), chỉ mới chủ yếu theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, còn thiếu sự chủ động đón đầu những rủi ro trong tương lai nên các giải pháp phòng ngừa theo thông lệ quốc tế chưa cụ thể, rõ ràng.
Các chế độ bảo hiểm xã hội đã bảo đảm được quyền lợi của người tham gia nhưng chưa thể hiện đầy đủ các nguyên tắc đóng – hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững. Bên cạnh đó, chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện lại chưa hấp dẫn, chưa khuyến khích được các bên tích cực tham gia. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội sao cho bảo đảm tính hợp lý, kịp thời giải quyết về quyền lợi cho người lao động, người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm tài chính quỹ bảo hiểm xã hội… là rất cần thiết.
2. Thực tiễn chính sách bảo hiểm xã hội trong công tác an sinh xã hội thời gian qua
Một là, về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
Hiện nay, mặc dù đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cả bắt buộc và tự nguyện đều đã được mở rộng nhưng tốc độ tăng còn khá chậm, khó đạt được các mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) là “phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội” và Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội: “đến năm 2021, phấn đấu đạt khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 1% lực lượng lao động trong độ tuổi; phấn đấu đến năm 2021 có khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội; đến năm 2025, phấn đấu đạt khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 2,5% lực lượng lao động trong độ tuổi; đến năm 2030, phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi”.
Pháp luật quy định về bảo hiểm xã hội đã cơ bản đầy đủ nhưng vẫn còn một số quy định chưa hấp dẫn, công tác phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội vẫn gặp những hạn chế, vướng mắc, như: điều kiện số năm hưởng lương hưu 20 năm là quá dài; một số nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là những nhóm luôn biến động, không dễ quản lý có thu nhập bấp bênh như người làm việc theo hợp đồng lao động từ 1 đến 3 tháng, người Việt Nam đi làm ở nước ngoài và người nước ngoài làm việc ở Việt Nam. Nhóm này tham gia bảo hiểm xã hội hoàn toàn dựa vào nhận thức và tài chính của người sử dụng lao động và người lao động cũng như phụ thuộc rất nhiều vào các hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội giữa Việt Nam và các nước có công dân làm việc tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới chỉ đang tiến hành đàm phán với Hàn Quốc và tổ chức các hoạt động trao đổi, tìm hiểu để hướng tới đàm phán chính thức với Nhật Bản.
Hiện vẫn còn một số đối tượng chưa được điều chỉnh tham gia bắt buộc như: chủ hộ kinh doanh cá thể; người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã không hưởng tiền lương; những người phát sinh các quan hệ lao động mới không có hợp đồng lao động (như Grab) và người làm việc theo hợp đồng lao động dưới 1 tháng.
Còn có sự chênh lệch chế độ bảo hiểm xã hội giữa hình thức tham gia bắt buộc và tự nguyện, trong khi mong muốn được bảo vệ trước các rủi ro về mất hay giảm thu nhập luôn hiện hữu trong cuộc sống thì lại như nhau, thêm vào việc thời gian tham gia bảo hiểm xã hội quá lâu để hưởng chế độ hưu trí đã khiến người lao động không mặn mà với bảo hiểm xã hội tự nguyện. Vì vậy, mặc dù Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội đối với người tham gia tự nguyệnnhưng vẫn chưa đủ sức hấp dẫn nên chưa có tác động lớn đến sự tham gia của người dân.
Mức độ phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc phụ thuộc rất lớn vào khả năng tài chính và nhận thức của những người sử dụng lao động. Trong khi số doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ chiếm số lượng quá lớn trong nền kinh tế nước ta. Các loại hình doanh nghiệp này thường có tư duy né tránh nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội và cũng như hoạt động sản xuất – kinh doanh khó khăn hơn nên việc tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động của mình không được đảm bảo.
Thiếu cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng về lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Một cơ chế phối hợp như vậy sẽ cho phép chia sẻ số liệu về quyết toán thuế của các doanh nghiệp nhằm bảo đảm không có sự chênh lệch giữa số lượng lao động mà doanh nghiệp thực tế có đóng bảo hiểm xã hội cho họ và số lượng lao động thực hiện quyết toán thuế.
Những hạn chế, vướng mắc trong công tác thu bảo hiểm xã hội:
Việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội của một số cơ sở sử dụng lao động chưa nghiêm, thêm vào việc nhiều doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa có tổ chức dại diện người lao động hoặc có nhưng không dám đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động.
Người lao động cần biết cụ thể và rõ ràng về tình hình người sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội cho mình. Tuy nhiên, thông tin về tình hình đóng bảo hiểm xã hội không được cập nhật thường xuyên do đó người lao động không thể phản ánh kịp thời với các cơ quan chức năng để xử lý mà chỉ đến khi người lao động đề nghị hưởng chế độ bảo hiểm xã hội do rủi ro mất thu nhập hoặc mất việc làm, tình trạng này mới được phát hiện.
Các thủ tục xử lý vấn đề nợ đọng bảo hiểm xã hội còn nhiều bất cập, các ngân hàng vẫn chưa thực hiện việc trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội chuyển cho cơ quan bảo hiểm xã hội theo Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-LĐTBXH-BTC-NHNN ngày 18/02/2008 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước.
Pháp luật quy định về khởi kiện ra tòa của tổ chức công đoàn còn gặp nhiều vướng mắc. Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì tổ chức công đoàn có quyền khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, trong đó có vấn đề nợ bảo hiểm xã hội. Nhưng quy trình tố tụng còn vướng nên tổ chức công đoàn gặp nhiều hạn chế khi tiến hành khởi kiện.
Hai là, về công tác giải quyết và chi trả chế độ bảo hiểm xã hội.
(1) Tình hình lạm dụng, thất thoát quỹ bảo hiểm xã hội khi phải chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các hành vi vi phạm pháp luật dưới nhiều hình thức tinh vi, phức tạp đã và vẫn tiếp tục là một thách thức đối với công tác bảo tồn, phát triển quỹ bảo hiểm xã hội để sảy ra tình trạng này là do:
+ Tình trạng vi phạm pháp luật của một số người lao động, người sử dụng lao động và có sự tiếp tay của một số cơ sở y tế trong việc làm giả hoặc lạm dụng phát hành các giấy tờ liên quan đến hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội trong khi chưa có kết nối điện tử trực tuyến về cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan liên quan.
+ Lợi dụng sơ hở của pháp luật, các doanh nghiệp lạm dụng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ với mức tối đa đối với người lao động của mình sau khi hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội mặc dù trên thực tế người lao động vẫn đi làm vừa hưởng tiền lương tại doanh nghiệp vừa hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả.
+ Quy định của pháp luật về tiền lương khó kiểm soát, nhiều đơn vị lách luật đóng bảo hiểm xã hội với mức lương không đúng, cao bất thường hoặc nhận gửi đóng để chiếm đoạt các chế độ bảo hiểm xã hội sau đó sẽ giảm hoặc dừng đóng.
(2) Tỷ lệ số người hưởng chế độ hưu trí ngày càng tăng cao, chưa có cơ chế khuyến khích người tham gia tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội sau khi đã đủ điều kiện hưởng lương hưu. Hiện nay số người tham gia bảo hiểm xã hội đủ 20 năm thường phải nghỉ hưu khi đến tuổi nghỉ hưu với tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí thấp và quỹ bảo hiểm xã hội phải chi trả sớm do chưa có chính sách khuyến khích người tham gia kéo dài thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí muộn hơn với mức hưởng cao hơn và các chính sách ưu đãi khi kéo dài thời gian tham gia bảo hiểm xã hội thay vì chỉ có duy nhất 1 chính sách là kéo dài tuổi nghỉ hưu.
(3) Đối với chế độ hưu trí bổ sung đã được quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Năm 2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2016/NĐ-CP quy định về chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện với hình thức tự nguyện và do các tổ chức bảo hiểm thương mại thực hiện nằm ngoài hệ thống bảo hiểm xã hội. Và chính vì còn được coi là thương mại nên chưa được sự quan tâm triển khai của ngành Bảo hiểm xã hội cũng như tâm lý mong muốn tham gia của người lao động.
(4) Tỷ lệ chi trả chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng qua tài khoản ngân hàng vẫn còn thấp. Việc chi trả các chế độ ngắn hạn chủ yếu vẫn được thực hiện thông qua người sử dụng lao động. Điều này dẫn đến việc thanh quyết toán quỹ bảo hiểm xã hội hàng năm chậm, gây lãng phí cho công tác quản lý do khối lượng hồ sơ giấy tờ lớn.
Ba là, về công tác đầu tư và đánh giá tài chính Quỹ bảo hiểm xã hội.
Trong những năm qua, mặc dù công tác đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội đã được thực hiện nhưng mới chỉ thực hiện các hình thức đầu tư an toàn cao nhưng thiếu đa dạng, cách thức đầu tư như hiện tại không thể hấp dẫn được lao động bởi mỗi năm quỹ trả lãi cao nhất hơn 7% nhưng lạm phát 8-9% thì không hấp dẫn để người lao động bỏ tiền tham gia bảo hiểm xã hội và sự bảo đảm khả năng chi trả của quỹ.
Sau 7 năm thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, hoạt động đầu tư quỹ đã có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn còn một số các hạn chế, vướng mắc trong quá trình triển khai, như:
(1) Trong giai đoạn 2016-2022, danh mục đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội không đa dạng, chủ yếu tập trung đầu tư mua trái phiếu Chính phủ và thực hiện gửi tiền, mua trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của các Ngân hàng thương mại theo danh sách mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung cấp và được Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội thông qua. Với danh mục đầu tư như vậy, hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội tuy được đánh giá an toàn nhưng hiệu quả đầu tư chưa cao; thêm nữa, hiện nay chỉ số xếp loại tín dụng của Ngân hàng Nhà nước là chưa có uy tín cao, chưa đưa ra được các tiêu chí để đánh giá tình trạng của ngân hàng có chất lượng hoạt động tốt mà chỉ cung cấp danh sách các Ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh và an toàn, ổn định, nên đã hạn chế việc lựa chọn ngân hàng có lãi suất cao để đầu tư
(2) Điều 4, Nghị định số 30/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định quỹ bảo hiểm xã hội đầu tư theo hình thức “Mua trái phiếu Chính phủ” nhưng lại không quy định rõ việc bán trái phiếu Chính phủ mà chỉ nêu “trường hợp cần thiết phải bán, thì trình Hội đồng quản lý xem xét, quyết định”. Quy định này gây khó khăn cho bảo hiểm xã hội Việt Nam trong việc tham gia tích cực vào thị trường trái phiếu Chính phủ và thực hiện đầu tư trái phiếu Chính phủ linh hoạt, hiệu quả theo hướng chuyên nghiệp (bao gồm áp dụng các nghiệp vụ REPO, hoán đổi, mua/bán trái phiếu Chính phủ tại thị trường thứ cấp);
Bốn là, về công tác tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội.
a) Đối với thanh tra và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội
Tính cưỡng chế sau thanh tra của ngành Lao động – Thương binh, Xã hội nói chung và chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội nói riêng còn thấp. Tình trạng khắc phục các vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc còn chậm, chưa triệt để, còn để sảy ra hiện tượng nhờn luật của người sử dụng lao động đối với việc chấp hành các quyết định xử lý vi phạm. Việc này sảy ra do tính thiếu cương quyết của cơ quan thực hiện xử lý vi phạm và sự thiếu đồng bộ trong việc thu hồi số tiền chậm đóng, xử phạt hành chính do các ngân hàng không phối hợp hoặc đơn vị sử dụng lao động che dấu thông tin tài khoản ngân hàng.
b) Những hạn chế, vướng mắc trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội
– Việc mất mát và lưu giữ không đầy đủ hồ sơ giấy tờ liên quan đến quyền hưởng chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động trong một thời gian dài, đặc biệt đối với chế độ hưu trí.
– Thiếu tính đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, điển hình là mặc dù có quyền khởi kiện ra Toà án đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội nhưng các tổ chức công đoàn rất khó thực hiện quyền này trong thực tiễn.
Công tác an sinh xã hội đã được Đảng chú trọng vì có ảnh hưởng sâu rộng, bao trùm lên các mặt đời sống của Nhân dân, nhất là sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986).
Hiện nay, cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội gồm 5 hợp phần: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, ưu đãi xã hôi và bảo trợ xã hội. Trong các hợp phần này của an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội là một hợp phần (hay trụ cột) lớn nhất, cơ bản nhất và ổn định nhất bởi lẽ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội phần lớn là người lao động (người lao động), là người có số lượng lớn trong cộng đồng dân cư, là những người trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra của cải cho xã hội.
Qua việc đóng góp của người tham gia theo luật định đã tạo lên một quỹ tài chính lớn mạnh, được sự bảo hộ của nhà nước nên đã tạo sự cơ bản, ổn định của bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội càng phát huy được vai trò của nó thì quỹ bảo hiểm xã hội càng phát triển, quỹ này sẽ quay trở lại bảo đảm ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần vào bảo đảm an sinh xã hội bền vững. Cùng với các hợp phần khác, bảo hiểm xã hội đã cùng tạo ra một “lưới an toàn xã hội” bao phủ lên mọi tầng lớp dân cư trong xã hội và ngày càng thể hiện vai trò trụ cột lớn trong hệ thống an sinh xã hội nói riêng và hệ thống chính sách xã hội nói chung của quốc gia.
Nhằm xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội trở thành một trong những trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội, phát huy vai trò quan trọng trong công tác chăm lo, bảo vệ và phát triển con người, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội, ngày 23/5/2018 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội và Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội trong tình hình mới, nêu rõ: cần phải tăng độ bao phủ phạm vi ra toàn bộ các nhóm chính sách xã hội cho tất cả các đối tượng trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện, trong đó coi trọng chính sách bảo đảm an sinh xã hội lấy trụ cột là bảo hiểm xã hội.
Các nghị quyết đã đưa chính sách bảo hiểm xã hội hướng tới mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội đến toàn dân và bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội; góp phần đưa chính sách bảo hiểm xã hội ngày càng lan tỏa trong cuộc sống với diện bao phủ được mở rộng và tạo động lực tốt hơn trong việc chăm lo an sinh xã hội tới mỗi người dân, người lao động.
Để cụ thể hóa quan điểm của Đảng về chính sách bảo hiểm xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày 08/10/2018 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW. Điều này tiếp tục khẳng định, việc bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước. Nghị quyết cũng đã đưa ra những nội dung quan trọng không chỉ tiếp tục quan tâm đến người đang làm việc theo hợp đồng lao động mà còn thể hiện quan tâm hơn nữa đến đối tượng là người làm việc trong khu vực phi chính thức và đặc biệt là làm việc ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, đây là “khoảng trống” chưa được quan tâm triệt để trong những lần thiết kế chính sách trước đây.
Với mục tiêu đến năm 2025, nông dân và người lao động phi chính thức khác phải được tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện với tỷ lệ khoảng 2,5% trong số 45% lực lượng lao động ở độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội. Nghị quyết số 28-NQ/TW càng khẳng định việc xây dựng nền an sinh xã hội với việc bao phủ bảo hiểm xã hội lên toàn bộ các thành viên trong xã hội là hướng tới sự phát triển bền vững, không để ai bị bỏ lại phía sau.
3. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội trong tình hình mới
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức và tự tuân thủ pháp luật bảo hiểm xã hội của người tham gia. Theo đó, cần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền về vai trò, tính quan trọng của chính sách an sinh xã hội nói chung, trong đó có bảo hiểm xã hội nói riêng.
Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền; đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội để cán bộ, đảng viên, Nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai trò, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đối với bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
Tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội thông qua việc hình thành một bộ phận riêng chịu trách nhiệm về quan hệ công chúng, xây dựng cơ chế cộng tác viên tại cơ sở như cộng tác viên về dân số đã từng làm.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện để tăng sự hấp dẫn khi lựa chọn cho người tham gia theo hình thức tự nguyện. Nghiên cứu sửa đổi điều kiện thụ hưởng chính sách phù hợp và hài hòa giữa lợi ích của người tham gia nhưng bảo đảm sự an toàn quỹ bảo hiểm xã hội, tránh trục lợi bảo hiểm xã hội.
Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội hưu trí bổ sung nhằm tăng sức hấp dẫn thu hút sự tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động. Sửa đổi điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần với những quy định phù hợp hơn, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người lao động để giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội.
Thứ ba, hoàn thiện quy định, chính sách bảo hiểm xã hội về quản lý đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ bảo hiểm xã hội phải được nghiên cứu các hình thức trực tiếp đầu tư để tăng hiệu quả của Quỹ và góp phần bảo đảm an sinh xã hội và tạo sự hấp dẫn trong việc tham gia bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, thực hiện chính sách khen thưởng kịp thời đối với các cá nhân, tổ chức có thành tích trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, từ đó, nhân rộng các điển hình tiên tiến góp phần đẩy lùi các vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Thứ năm, thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế thông qua việc tham gia, ký kết các công ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo đảm quyền lợi của người lao động làm việc trong môi trường hội nhập, toàn cầu hóa. Thực hiện rà soát lại các cam kết quốc tế về lĩnh vực bảo hiểm xã hội mà Việt Nam đã tham gia, sửa đổi các quy định không còn phù hợp.
Xây dựng và hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo hướng tiên tiến, phù hợp với thế giới trong môi trường hội nhập về chính sách an sinh xã hội trong khu vực và thế giới.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
3. Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với an sinh xã hội của đất nước. https://molisa.gov.vn/baiviet/20845?tintucID=20845.
4. Hoàn thiện và đảm bảo tính khả thi của các chế định trong Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi). https://tapchitoaan.vn/hoan-thien-va-dam-bao-tinh-kha-thi-cua-cac-che-dinh-trong-du-thao-luat-bao-hiem-xa-hoi-sua-doi9772.html.
5. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. https://www.molisa.gov.vn/baiviet/24324?tintucID=24324.