Pháp luật về giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay

ThS. Trần Thanh Khiết
Bộ Giáo dục và Đào tạo

(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi số hiện nay đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, là xu thế tất yếu mà Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Các văn bản của Đảng và Nhà nước liên quan đến chuyển đổi số luôn xác định giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng giữ vai trò tiên phong trong chuyển đổi số quốc gia. Cũng như nhiều lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội, vấn đề chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học phải được thực hiện dựa trên các quy định của Nhà nước để bảo đảm cho quá trình chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói chung. Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích khung pháp lý về giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay, kết quả hạn chế và hướng hoàn thiện.

Từ khóa: Pháp luật, giáo dục đại học, chuyển đổi số.

1. Thực trạng pháp luật giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số

Trên cơ sở Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo đã xác định “đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Xuất phát từ chủ trương này, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và ngành Giáo dục đào tạo đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng về chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Có thể nhóm thành các nội dung như sau:

(1) Các quy định về tổ chức các cơ sở giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số.

Thứ nhất, nhóm các quy định về cơ cấu tổ chức cơ sở giáo dục đại học. Luật Giáo dục đại học năm 2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2018) và Luật Giáo dục năm 2019 đã xác định những cơ sở pháp lý quan trọng nhất về tổ chức của giáo dục đại học. Theo đó, cơ sở giáo dục đại học là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện chức năng đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, hoạt động khoa học và công nghệ, phục vụ cộng đồng (Khoản 1 Điều 4 Luật Giáo dục đại học).

Cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam, gồm: trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học), đại học (bao gồm nhiều trường đại học thành viên, cơ sở nghiên cứu khoa học,…) và viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ. Nếu như Luật Giáo dục đại học năm 2012 vẫn có “Trường cao đẳng” thuộc giáo dục đại học thì từ khi ban hành Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, cơ sở giáo dục cao đẳng không được coi là cơ sở giáo dục đại học. Thẩm quyền thành lập trường cao đẳng sẽ do Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quyết định, riêng đối với các trường cao đẳng sư phạm sẽ thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Với mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý giáo dục và đào tạo và thúc đẩy chuyển đổi số trong quản trị, quản lý giáo dục và đào tạo, góp phần phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 42/2021/TT-BGDĐT ngày 30/12/20221 quy định về cơ sở dữ liệu giáo dục và đào tạo. Nội dung của cơ sở dữ liệu về giáo dục đại học được xác định, gồm: thông tin mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; thông tin danh mục ngành đào tạo; thông tin chương trình đào; thông tin cơ bản của cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, giảng viên, nhân viên, cán bộ nghiên cứu; thông tin người; thông tin khoa học công nghệ; thông tin cơ sở vật chất và trang thiết bị trong cơ sở giáo dục đại học; thông tin tài chính; thông tin hợp tác quốc tế, hợp tác với doanh nghiệp; các thông tin khác theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan quản lý có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, để phục vụ công tác quản lý và sử dụng, Thông tư này cũng xác định tài khoản trên cơ sở dữ liệu giáo dục và đào tạo, mã định danh, báo cáo, hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật, quy định kỹ thuật về dữ liệu và kết nối với cơ sở dữ liệu giáo dục và đào tạo.

Thứ hai, nhóm các quy định về đánh giá cơ sở giáo dục đại học, trong đó có đánh giá năng lực chuyển đổi số nhằm thúc đẩy chuyển đổi số ở các cơ sở giáo dục đại học, theo dõi đánh giá khách quan, thực chất, công bằng kết quả chuyển đổi số và phát hiện các điển hình, mô hình chuyển đổi số làm tốt để nhân rộng, tạo phong trào thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 4740/QĐ-BGDĐT ngày 30/12/2022 ban hành Bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học với ba nội dung quan trọng:

– Về cấu trúc Bộ chỉ số gồm 2 nhóm tiêu chí thành phần: nhóm tiêu chí “Chuyển đổi số trong đào tạo” và nhóm tiêu chí “Chuyển đổi số trong quản trị cơ sở giáo dục đại học”.

– Về mức độ chuyển đổi số được đánh giá theo từng nhóm tiêu chí thành phần, thang điểm 100, gồm 3 mức độ: (1) Mức chưa đáp ứng (tổng điểm của mỗi nhóm tiêu chí dưới 50, ở mức này, cơ sở giáo dục đại học chưa đáp ứng các yêu cầu cơ bản về triển khai chuyển đổi số). (2) Mức đáp ứng cơ bản (tổng điểm của mỗi nhóm tiêu chí từ 50 đến 75, ở mức này, các cơ sở giáo dục đại học đã đáp ứng yêu cầu cơ bản về triển khai chuyển đổi số). (3) Mức đáp ứng tốt (tổng điểm của mỗi nhóm tiêu chí trên 75, ở mức này, các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng tốt các yêu cầu cơ bản và một số yêu cầu nâng cao về triển khai chuyển đổi số).

– Về tổ chức đánh giá mức độ chuyển đổi số theo 2 quy trình là cơ sở giáo dục đại học tự đánh giá, đánh giá ngoài và công nhận kết quả.

Thứ ba, các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học. Bên cạnh những nhiệm vụ và quyền hạn mang tính truyền thống, điểm khác biệt lớn nhất của Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 chính là mở rộng quyền tự chủ cho các trường đại học. Trong đó, quy định khá chi tiết về việc giao quyền tự chủ cho các trường trong học thuật và hoạt động chuyên môn; trong tổ chức và nhân sự; trong tài chính và tài sản… Cụ thể, các trường được tự quyết định về chính sách mở ngành, tuyển sinh, đào tạo; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và các chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để được thực hiện quyền tự chủ, các trường đại học phải đáp ứng một số điều kiện, như: đã thành lập hội đồng trường, hội đồng đại học; thực hiện phân quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đến từng đơn vị, cá nhân trong trường; công khai điều kiện bảo đảm chất lượng, tỷ lệ sinh viên có việc làm…

Bên cạnh đó, trường đại học phải công khai mức học phí cả khóa học trên website, được giao quyền tự chủ, các trường đại học tư thục cũng được phép tự quyết định mức học phí. Học phí là khoản tiền mà người học phải nộp cho trường đại học để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo. Đồng thời, các trường phải có trách nhiệm trích một phần nguồn học phí để hỗ trợ sinh viên có hoàn cảnh khó khăn.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 4597/QĐ-BGDĐT ngày 28/12/2022 ban hành quy định kỹ thuật về dữ liệu trong thanh toán không dùng tiền mặt đối với việc thu học phí và các khoản thu dịch vụ giáo dục, bao gồm các quy định về dữ liệu áp dụng thống nhất cho hệ thống thông tin quản lý của các cơ sở giáo dục, bảo đảm kết nối, chia sẻ thông tin với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, trung gian thanh toán để phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt.

Ngoài ra, cơ sở giáo dục đại học cũng chuyển đổi sang quản lý, vận hành, khai thác và sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu theo Quyết định số 4279/QĐ-BGDĐT ngày 14/12/2022 ban hành quy chế quản lý, vận hành, khai thác sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu giáo dục và đào tạo tại Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống dữ liệu phục vụ quản lý gồm: hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin, phần mềm quản lý và cơ sở dữ liệu giáo dục và đào tạo nhằm quản lý, sử dụng, vận hành đồng bộ, thống nhất trong toàn ngành Giáo dục. Hệ thống có các chức năng cơ bản phục vụ công tác báo cáo, thu thập, tổng hợp, phân tích dữ liệu và cung cấp thông tin về giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục đại học phục vụ công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.

Thứ tư, các quy định về nhân lực của cơ sở giáo dục đại học. Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, đội ngũ giảng viên, nhà quản lý, người phục vụ trong các cơ sở giáo dục đại học, ngoài các yêu cầu về chuyên môn, bằng cấp, trình độ chính trị…rất cần năng lực về công nghệ thông tin. Điều 7 Thông tư số 30/2023/TT-BGDĐT ngày 29/12/2023 quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo trực tuyến đối với giáo dục đại học nhân lực triển khai đào tạo trực tuyến.

Đội ngũ nhân lực triển khai đào tạo trực tuyến gồm: người dạy, đội ngũ quản trị, vận hành hệ thống, đội ngũ thiết kế và sản xuất học liệu, đội ngũ cố vấn và giáo vụ, trong đó, người dạy phải có kỹ năng đào tạo trực tuyến, như: quản lý, định hướng, hướng dẫn và giải đáp người học qua phương thức đào tạo trực tuyến; sử dụng thành thạo hệ thống quản lý học tập trực tuyến và các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ đào tạo trực tuyến. Đội ngũ quản trị, vận hành hệ thống đào tạo trực tuyến phải am hiểu các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin liên quan đến đào tạo trực tuyến của cơ sở đào tạo; được hướng dẫn, chuyển giao công nghệ để quản trị, vận hành hệ thống công nghệ thông tin bảo đảm hoạt động ổn định, an toàn.

Thứ năm, các quy định về người học cơ sở giáo dục đại học. Người học là người đang học tập và nghiên cứu khoa học tại cơ sở giáo dục đại học, gồm: sinh viên của chương trình đào tạo đại học; học viên của chương trình đào tạo thạc sỹ; nghiên cứu sinh của chương trình đào tạo tiến sỹ. Bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của người học, nhất là việc bảo đảm điều kiện học tập, tham gia hoạt động khoa học, công nghệ và khởi nghiệp, hoạt động rèn luyện kỹ năng hoàn thiện bản thân.

(2) Các quy định về hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số.

Một là, các quy định về hoạt động đào tạo đại học trong bối cảnh chuyển đổi số. Đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và sự phát triển của hệ thống công nghệ thông tin, pháp luật đã có những quy định về tiêu chuẩn, yêu cầu cụ thể đối với hoạt động đào tạo ở bậc giáo dục đại học, đặc biệt là đào tạo trực tuyến; học liệu số; bảo đảm an toàn thông tin và quyền truy cập của người dùng.

Đào tạo trực tuyến là mô hình đào tạo đại học mang tính hiện đại, phù hợp với điều kiện chuyển đổi số. Năm 2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 30/2023/TT-BGDĐT ngày 29/12/2023 quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo trực tuyến đối với giáo dục đại học. Theo đó, đào tạo trực tuyến là hoạt động đào tạo (gồm hoạt động dạy, hướng dẫn, học tập, đánh giá) được tổ chức trên môi trường số thông qua hệ thống đào tạo trực tuyến. Thông tư quy định về nguyên tắc, yêu cầu chung về ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo trực tuyến; nội dung đào tạo trực tuyến; hệ thống phần mềm đào tạo trực tuyến; học liệu đào tạo trực tuyến; hạ tầng và an toàn thông tin đối với hệ thống đào tạo trực tuyến; bảo đảm truy cập của người dùng; bảo đảm chất lượng đào tạo trực tuyến; quy định về quy chế tổ chức đào tạo trực tuyến.

Hai là, các quy định về hoạt động khoa học và công nghệ. Trong bối cảnh sự phát triển như mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và chuyển đổi số, nghiên cứu khoa học và công nghệ tại cơ sở giáo dục đại học có ý nghĩa lớn. Luật Giáo dục đại học hiện hành xác định 3 nhóm mục tiêu hoạt động khoa học và công nghệ là: (1) Nâng cao chất lượng giáo dục đại học, năng lực nghiên cứu và khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ của giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý, viên chức. (2) Hình thành và phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho người học; phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực trình độ cao. (3) Tạo ra tri thức, công nghệ, giải pháp mới để phát triển khoa học và giáo dục, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.

Nội dung hoạt động khoa học và công nghệ mang tính toàn diện ở các lĩnh vực từ nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học giáo dục, khoa học công nghệ để tạo ra tri thức và sản phẩm mới đến ứng dụng các kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ vào thực tiễn sản xuất và đời sống. Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục đại học phải xây dựng các phòng thí nghiệm, các cơ sở nghiên cứu phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, các vườn ươm công nghệ, gắn phát triển công nghệ với tạo sản phẩm mới và tham gia tuyển chọn, tư vấn, phản biện, thực hiện các nhiệm vụ, hợp đồng khoa học và công nghệ, các nhiệm vụ theo đơn đặt hàng.

Ba là, các quy định về hoạt động hợp tác quốc tế. Trước xu thế toàn cầu hoá về giáo dục, việc các cơ sở giáo dục đại học đã và đang tăng cường, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục đại học là điều tất yếu. Các hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học rất đa dạng, như: liên kết đào tạo; thành lập văn phòng đại diện của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam; hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học; tư vấn, tài trợ, đầu tư phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị; bồi dưỡng, trao đổi giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý và người học… Các hoạt động này đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học theo hướng hiện đại, tiếp cận nền giáo dục đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới cũng như tạo điều kiện để cơ sở giáo dục đại học phát triển bền vững, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việt Nam là đất nước có truyền thống hiếu học, hệ thống chính sách phát triển giáo dục đại học được quan tâm. Tuy nhiên, từ thực tiễn pháp luật về chuyển đổi số trong giáo dục chưa có quy định nào đề cập trực tiếp đến cơ chế, biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân người học mà các cơ sở đào tạo là bên kiểm soát, xử lý dữ liệu, vì vậy vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân người học chưa được chú trọng; vấn đề liêm chính trong học tập và nghiên cứu khoa học; dạy, học, đánh giá trên môi trường số; quản lý của các cơ quan nhà nước trong môi trường số; vấn đề học liệu số và bản quyền; an ninh, an toàn của giáo dục đại học trên môi trường số đang gặp nhiều thách thức đặt ra sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về pháp luật đối với giáo dục đại học trong tình hình mới.

2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số

Thứ nhất, rà soát, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tổ chức các cơ sở giáo dục đại học trong điều kiện chuyển đổi số. Nghiên cứu ban hành các quy định, tiêu chuẩn về năng lực số cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên và người học bảo đảm quản lý, làm việc hiệu quả trên môi trường số; kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ phụ trách ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Bên cạnh đó, bổ sung các quy định về xây dựng các nền tảng, hạ tầng quản lý nhà nước và quản lý nội bộ đối với giáo dục đại học, bảo đảm tính kết nối, liên thông, chia sẻ và bảo mật.

Đặc biệt, sớm ban hành “Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến 2045” và “Khung chiến lược phát triển giáo dục đại học” trong đó cần xác định các quan điểm, định hướng, giải pháp và phân công thực hiện công tác chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục đại học nói riêng.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định của giáo dục đại học trong điều kiện chuyển đổi số trong các hoạt động dạy học, nghiên cứu khoa học, đánh giá người học và giáo trình, tài liệu học tập. Rà soát và ban hành các quy định kỹ thuật về dữ liệu; hướng dẫn kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị, cơ quan trong ngành Giáo dục và ngành Giáo dục với các cơ sở dữ liệu quốc gia; hướng dẫn kết nối kỹ thuật triển khai thanh toán không dùng tiền mặt trong các cơ sở giáo dục đại học; ban hành tiêu chí kỹ thuật nền tảng số dùng trong các cơ sở giáo dục đại học; ban hành các bộ chỉ tiêu đánh giá chuyển đổi số đối với cơ sở giáo dục đại học và cơ quan quản lý giáo dục đại học; ban hành chính sách thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo, các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên nền tảng và công nghệ số. Đặc biệt, sửa đổi, hoàn thiện các quy định về giảng dạy, học tập trực tuyế; tài liệu, phần mềm học tập, bản quyền tác giả trên môi trường số; thi cử, kiểm tra, đánh giá trên môi trường số.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học. Chuyển đổi số quốc gia nói chung, chuyển đổi số trong giáo dục đại học nói riêng cần phải sử dụng, ứng dụng, nâng cấp và ứng dựng các thành tưu khoa học kỹ thuật về công nghệ thông tin, số hoá, phần mềm nên Bộ Thông tin và Truyền thông có vai trò rất quan trọng. Bên cạnh các quy định hiện có, cần bổ sung, sửa đổi, chi tiết hoá hệ thống các văn bản, quy định để Bộ Thông tin và Truyền thông có đủ quyền hạn, trách nhiệm và nguồn lực để thực hiện.

Cụ thể, Bộ Thông tin và Truyền thông được quyền chủ trì, chỉ đạo các doanh nghiệp công nghệ thông tin nghiên cứu, phát triển các nền tảng, giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Ngoài, chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp công nghệ thông tin nghiên cứu, phát triển hạ tầng số quốc gia, hạ tầng Internet bảo đảm triển khai hiệu quả các hoạt động chuyển đổi số trong giáo dục đại học; bảo đảm kết nối Internet tới tất cả các cơ sở giáo dục đại học; có chính sách ưu đãi về dịch vụ Internet và dịch vụ công nghệ thông tin đối với người học, đội ngũ nhà giáo và các cơ sở giáo dục đại học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cần quy định rõ, đầy đủ, có hướng dẫn chi tiết (kể cả cơ chế phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các tổ chức, cá nhân) về tiêu chuẩn, năng lực số của giảng viên, đội ngũ quản lý giáo dục, người học; các quy định về dạy và học trực tuyến; tài liệu số; kiểm tra, thi, đánh giá chất lượng thông qua môi trường số; các thủ tục hành chính nội bộ của cơ sở giáo dục đại học trực tuyến… Các cơ quan còn lại, như: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tuỳ theo thẩm quyền sẽ phụ trách các công tác về tài chính, kế hoạch, thanh tra, kiểm tra để nâng cao năng lực chuyển đổi số ở các cơ sở giáo dục đại học.

Thứ tư, hoàn thiện các quy định nhằm huy động các nguồn lực tham gia ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục đại học. Việc chuyển đổi số rất tốn kém về mặt kinh phí trong khi ngân sách nhà nước và các khoản thu sự nghiệp khá hạn chế, do đó cần sớm sửa đổi, ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích nguồn kinh phí huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; tăng cường sử dụng nguồn kinh phí lồng ghép trong các chương trình, đề án liên quan đã được phê duyệt và các nguồn hợp pháp khác để thực hiện, điển hình như chính sách huy động sự tham gia và đóng góp nguồn lực của các tổ chức, cá nhân và chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài cho chuyển đổi số trong giáo dục đại học; chính sách thúc đẩy phát triển công nghệ giáo dục (Edtech); chính sách máy tính giáo dục cho sinh viên; chính sách Internet giáo dục đại học.

Thứ năm, hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật đối với giáo dục đại học. Có các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục đại học; tổ chức đánh giá, công bố chỉ số chuyển đổi số đối với cơ sở giáo dục đại học, cơ quan quản lý giáo dục đại học trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Thứ sáu, bảo đảm tốt các điều kiện để thực thi pháp luật về quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học. Trước hết là tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng gắn liền với tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức; đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên và người học; nâng cao chỉ số phát triển nguồn nhân lực về Chính phủ điện tử (HCI). Bên cạnh đó, tăng cường các điều kiện bảo đảm triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục đại học, phát triển hệ sinh thái chuyển đổi số hoạt động dạy, học, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu khoa học và triển khai đồng bộ hệ thống thông tin quản lý giáo dục và đào tạo và cơ sở dữ liệu ngành Giáo dục.

3. Kết luận

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, trong đó có giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Mặc dù hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật về giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số còn tồn tại không ít bất cập, hạn chế cả ở phương diện tổ chức, hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học, bộ máy quản lý và các nội dung khác có liên quan. Trong khi đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học – công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số, giáo dục đại học tất yếu và là thành phần đầu tiên phải thay đổi, điều này dẫn đến việc phải sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật. Đây cũng là một trong những nội dung trong tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.      
3. Bộ Chính trị (2005). Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021). Thông tư số 42/2021/TT-BGDĐT ngày 30/12/2021 quy định về cơ sở dữ liệu giáo dục và đào tạo.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022). Quyết định số 4597/QĐ-BGDĐT ngày 28/12/2022 ban hành quy định kỹ thuật về dữ liệu trong thanh toán không dùng tiền mặt đối với việc thu học phí và các khoản thu dịch vụ giáo dục.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022). Quyết định số 4279/QĐ-BGDĐT ngày 14/12/2022 ban hành quy chế quản lý, vận hành, khai thác sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu giáo dục và đào tạo tại Bộ Giáo dục và Đào tạo.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022). Quyết định số 4740/QĐ-BGDĐT ngày 30/12/2022 ban hành Bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2023). Thông tư số 30/2023/TT-BGDĐT ngày 29/12/2023 quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo trực tuyến đối với giáo dục đại học.
9. Đặng Hằng (2018). Những điểm mới cơ bản của Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018. Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2019. http://sgddt.dongnai.gov.vn.
10. Đinh T. C. H. Đinh Thị Cẩm Hà (2023). Cơ sở pháp lý về chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí khoa học Trường Đại học quốc tế Hồng Bàng,  tr 143 – 150, tháng 6/2023.
11. Nguyễn Bình Huy – Trần Hải Anh – Nguyễn Hữu Tâm. Chuyển đổi số – xu hướng tất yếu trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. https://tapchicongthuong.vn.
12. PGS.TS. Vũ Hải Quân. Chuyển đổi số trong giáo dục đại học. https://vnuhcm.edu.vn.
13. P. H. S. Phạm Hải Sơn. Pháp luật về chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí khoa học Trường Đại học quốc tế Hồng Bàng số 25, tr 153 – 162, tháng 9/2023.
14. Quốc hội (2018). Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
15. Quốc hội (2019). Luật Giáo dục năm 2019.
16. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030”.
17. PGS.TS. Trần Thị Minh Tuyết. Đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. https://www.tapchicongsan.org.vn/.