Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững tại tỉnh Đắk Lắk

ThS. Trần Thị Mai
Phân hiệu Học viện Hành chính Quốc gia tại tỉnh Đắk Lắk
ThS. Nguyễn Duy Mạnh
Đại học Trần Quốc Tuấn

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững tại tỉnh Đắk Lắk, làm rõ tiềm năng, lợi thế cũng như những khó khăn, thách thức. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp phát triển nông nghiệp tại tỉnh Đắk Lắk theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường, xây dựng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. 

Từ khóa: Nông nghiệp; phát triển bền vững; tỉnh Đắk Lắk.

1. Đặt vấn đề

Phát triển nông nghiệp theo hướng chất lượng cao, bền vững là yêu cầu cấp thiết nằm trong chiến lược phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đại hội XIII của Đảng xác định: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh, gắn nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị1.

Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, có vùng đất đỏ bazan màu mỡ, khí hậu nhiệt đới ôn hòa nên rất thuận lợi để trở thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, ứng dụng khoa học – công nghệ chất lượng cao, bền vững, đặc biệt là trồng cà phê, hồ tiêu, cao su và chăn nuôi. Đồng thời, địa phương này cũng có điều kiện giao thông kết nối tương đối tốt với các địa phương, vùng lãnh thổ. Tổng diện tích đất tự nhiên 13.125 km² với 49 dân tộc anh em sinh sống, dân số trên 1,9 triệu người; tỉnh có 13 huyện, 1 thị xã và 1 thành phố; có 184 xã, phường, thị trấn. Vùng nông thôn có 151 xã với diện tích chiếm 97,6% diện tích toàn tỉnh; với gần 309.000 hộ, 1.335.000 khẩu, chiếm 79,3% tổng số hộ, 77,2% số khẩu toàn tỉnh. Với diện tích đất sản xuất nông nghiệp hơn 627 ngàn ha, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò, vị trí rất quan trọng trong phát triển nền kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Lắk2. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng và thiếu kiểm soát của nông nghiệp truyền thống đã dẫn đến những vấn đề, như: suy kiệt đất, ô nhiễm môi trường và mất cân bằng sinh thái. Trước bối cảnh mới, phát triển nông nghiệp bền vững trở thành nhu cầu cấp thiết đối với tỉnh, vừa để bảo vệ môi trường vừa bảo đảm nguồn sinh kế cho người dân, tỉnh Đắk Lắk xác định tập trung phát triển nông nghiệp theo ba trụ cột là: (1) Phát triển bảo tồn; (2) Sản xuất bền vững và (3) Bảo đảm an sinh xã hội.

Bắt nhịp với xu thế phát triển mới, với những tiềm năng, lợi thế sẵn có, trong những năm gần đây, Đắk Lắk đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm, thủy sản theo chiều sâu, nông nghiệp xanh, gắn với phát triển công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm, tạo chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của tỉnh, vùng và quốc gia, có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế, ngành Nông nghiệp tỉnh duy trì phát triển toàn diện và chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế của tỉnh.

2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững tại tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk nổi tiếng là “thủ phủ cà phê” của Việt Nam, đóng góp hơn 30% sản lượng cà phê của cả nước. Ngoài cà phê, tỉnh còn có thế mạnh trong các loại cây công nghiệp khác, như: hồ tiêu, cao su, các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao cùng với các hoạt động chăn nuôi gia súc. Ngành Nông nghiệp Đắk Lắk bước đầu có những thay đổi, từ sản xuất dựa trên khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực xã hội đã bắt đầu hướng đến những “giá trị xanh”. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã hình thành, phát triển nhiều cơ sở sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp xanh, sinh thái, tuần hoàn, cải thiện và nâng cao đời sống khu vực nông thôn; các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ngày càng phổ biến ở các địa phương. Bên cạnh đó, Đắk Lắk cũng đang phát triển mạnh những hình thức sản xuất nông nghiệp tuần hoàn nhằm tận dụng các phế phẩm nông nghiệp để tái sử dụng làm phân bón, thức ăn chăn nuôi theo vòng khép kín, qua đó, đã giảm đáng kể chi phí đầu vào, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp. Đây là hướng đi bền vững cho ngành Nông nghiệp của tỉnh hiện nay và trong thời gian tới.

Ở Đắk Lắk, tính đến đầu năm 2024, toàn tỉnh có 503 hợp tác xã đang hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; 244 tổ hợp tác và 868 trang trại. Ngoài ra, có khoảng 34 doanh nghiêp, 276 trang trại, gia trại và có khoảng 15.525 hộ tham gia các dự án sản xuất liên kết theo mô hình chuỗi giá trị; 5 tổ chức khoa học tham gia liên kết. Ngoài ra, có khoảng 34 doanh nghiệp, 276 trang trại, gia trại và 15.525 hộ tham gia liên kết3. Việc liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với hợp tác xã nông nghiệp, nông dân đã khai thác được nguồn vốn, kinh nghiệm tổ chức sản xuất, thị trường của các doanh nghiệp, trong đó hợp tác xã nông nghiệp đóng vai trò là cầu nối hết sức quan trọng; đồng thời, tạo cơ hội cho nông dân được chuyển giao và áp dụng khoa học – công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất. 

Các hợp tác xã đóng vai trò quan trọng trong định hướng, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, là mô hình chủ đạo giúp thúc đẩy ứng dụng công nghệ tiên tiến, sản xuất theo hướng hữu cơ, tuần hoàn và liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là trong các loại cây như mắc ca, cà phê và sầu riêng. Các hợp tác xã áp dụng các quy trình hữu cơ, giảm sử dụng phân bón và thuốc hóa học, đồng thời đăng ký chứng nhận OCOP nhằm gia tăng giá trị và tính cạnh tranh của sản phẩm. Một số hợp tác xã nông nghiệp điển hình trên địa bàn tỉnh được hình thành và phát triển theo hướng xanh, bền vững. Thay vì sản xuất cà phê theo cách truyền thống, những thành viên trong hợp tác xã bắt đầu một thói quen sản xuất mới, quy củ và nghiêm ngặt hơn. 

Theo Quy hoạch tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ngành Nông nghiệp là lĩnh vực đầu tiên trong 5 lĩnh vực ưu tiên tạo đột phá cho phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, phát triển nông nghiệp theo các mô hình trồng trọt và chăn nuôi với quy mô lớn, có sự liên kết chặt chẽ với chuỗi giá trị chế biến thực phẩm để nâng cao hiệu quả sản xuất. Xây dựng một nền nông nghiệp sạch, hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn thân thiện với môi trường, hình thành thương hiệu sản phẩm hàng hóa nông sản có chỗ đứng vững chắc trên thị trường, đặc biệt là xây dựng thương hiệu Cà phê Buôn Ma Thuột vươn ra tầm khu vực và thế giới, với những sản phẩm chất lượng cao. Ứng dụng công nghệ cao, công nghệ hữu cơ vào các hoạt động nông nghiệp để phát triển bền vững. Trong đó, ưu tiên tăng trưởng xanh, chú trọng đến bảo vệ môi trường, giữ được rừng, bảo tồn nguồn nước, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi và năng suất lao động.

Mục tiêu mà Quy hoạch tỉnh đề ra đối với ngành Nông nghiệp là rất cao, đi cùng với đó là các giải pháp đột phá, tập trung tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững trên cơ sở đổi mới phương thức từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, sinh thái, hữu cơ quy mô lớn gắn với vùng chuyên canh và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên đất, nguồn nước. Bên cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu nông, lâm, thủy sản theo hướng phát triển mạnh ngành chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp (từ rừng trồng) và dịch vụ nông nghiệp.

Trong đó, ngành chăn nuôi là hướng ưu tiên, là đột phá trong phát triển nông nghiệp gắn với quá trình tái cơ cấu nông nghiệp toàn tỉnh. Phát triển quan hệ sản xuất trên cơ sở tổ chức lại sản xuất, phát triển các hợp tác xã kiểu mới, tổ hợp tác; hình thành chuỗi liên kết giữa người nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp; phát triển kinh tế trang trại; thúc đẩy liên kết giữa nhà nông, Nhà nước, doanh nghiệp, ngân hàng, nhà khoa học và nhà phân phối. Thu hút đầu tư, tập trung vào nông nghiệp sinh thái công nghệ cao, công nghiệp chế biến, gắn các hoạt động sản xuất với phát triển du lịch… Phụ phẩm nông nghiệp cũng được tái sử dụng theo vòng khép kín, qua đó, giảm đáng kể chi phí đầu vào, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk.

Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã hình thành, phát triển nhiều cơ sở sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp xanh, sinh thái tuần hoàn, cải thiện và nâng cao đời sống khu vực nông thôn. Toàn tỉnh có trên 23.000 ha cà phê áp dụng sản xuất theo chứng nhận cà phê bền vững (4C, UTZ, RA, FLO…); 9 tổ chức, cá nhân nuôi trồng thủy sản được cấp Giấy chứng nhận VietGAP, VietGAHP với sản lượng trên 1.600 tấn/năm; các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh ngày càng phổ biến. Mô hình nông nghiệp xanh đang ngày càng được người nông dân quan tâm. Doanh nghiệp, hợp tác xã đã nâng cao về nhận thức cho nông dân trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng phân bón vô cơ, đi đôi với nhiều tiến bộ kỹ thuật, trồng trọt, chăn nuôi theo hướng tuần hoàn, khép kín. 

Việc nhân rộng các mô hình sản xuất có áp dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, mô hình theo GAP, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp luôn được quan tâm triển khai thực hiện, góp phần không nhỏ trong công tác thực hiện tái cơ cấu ngành cũng như nâng cao đời sống của người nông dân. Hiện nay, Sở đã và đang triển khai thực hiện 3 mô hình: mô hình trình diễn phân bón lá PLANTAGREENPOWER PGP và phân bón sinh học TENABIO RU trên cây mắc ca và cây sầu riêng kinh doanh – Công ty Tenabio Việt Đức; mô hình canh tác cà phê thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2023 – 2025 năm 2024 – Viện Wasi; mô hình sản xuất cây giống măng tây – Công ty cổ phần CL Greens. Ngoài ra, Sở đang thực hiện xây dựng 3 mô hình từ nguồn kinh phí trung ương (gồm mô hình thâm canh sầu riêng; mô hình thâm canh mít theo VietGAP; mô hình trồng mới chanh leo).

Tính đến ngày 05/12/2024, toàn tỉnh có 250 sản phẩm OCOP (3 sản phẩm tiềm năng 5 sao, 42 sản phẩm đạt 4 sao và 205 sản phẩm đạt 3 sao) của 152 chủ thể, trong đó có 52 doanh nghiệp, 36 hợp tác xã và 64 hộ kinh doanh. Các sản phẩm đạt 4 sao đều có tiềm năng để hoàn thiện, chuẩn hóa các tiêu chí để nâng cấp chất lượng đạt chuẩn 5 sao (cấp quốc gia) để tham gia vào thị trường quốc tế, như: cà phê, ca cao, mắc ca… Các sản phẩm OCOP đã nhanh chóng khẳng định vị thế, được thị trường đón nhận tích cực, giúp người nông dân mở rộng quy mô sản xuất, tăng giá trị sản phẩm, từ đó, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập của nhân dân và thực hiện hiệu quả nhóm tiêu chí “kinh tế và tổ chức sản xuất” trong bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới… Qua chương trình OCOP, phát hiện nhiều mô hình hay, cách làm hiệu quả, sáng tạo, góp phần nâng cao chất lượng, giá trị sản nông của tỉnh4.

Đặc biệt, từ năm 2023 đến nay, giá cà phê, sầu riêng, tiêu và một số sản phẩm cây công nghiệp khác tăng cao, góp phần tăng thu nhập cho người dân, doanh nghiệp và là điều kiện thuận lợi để tỉnh đẩy mạnh phát triển nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh, bền vững.

Trong chăn nuôi, việc xử lý chất thải, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp theo hình thức kinh tế tuần hoàn đang được áp dụng với những quy mô khác nhau. Cùng với các công trình khí sinh học, ngành chăn nuôi đang tích cực hướng dẫn nông dân thu gom chất thải vật nuôi để nuôi trùn quế, ủ phân hữu cơ, tạo nguồn protein làm thức ăn cho vật nuôi trong bối cảnh giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, vừa chuyển hóa chất thải thành phân bón hữu cơ, giảm tác hại đến môi trường. 

Tuy nhiên, thời gian qua, việc phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững tại tỉnh Đắk Lắk còn gặp một số khó khăn, thách thức như: 

Một là, mặc dù có nhiều lợi thế để phát triển nhưng nhìn chung, nông nghiệp của Đắk Lắk vẫn còn là nông nghiệp quảng canh, mô hình nhỏ lẻ nên rủi ro cao và hiệu quả thấp, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa chưa cao, với các đặc trưng phổ biến là sản phẩm thô, tốn kém nhiều nguồn lực, chưa ứng dụng khoa học – công nghệ nên tính cạnh tranh không cao.

Hai là, vấn đề tài nguyên đất đang bị suy thoái ngày càng nghiêm trọng. Mặc dù tọa lạc trên nền đất đỏ bazan màu mỡ, nhưng với tập quán canh tác lạc hậu kéo dài như: sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật quá mức; chặt phá rừng, canh tác trên đất dốc; chưa có hệ thống xử lý chất thải hiệu quả nên đã dẫn đến hiện tượng đất bị giảm khả năng giữ nước, chống xói mòn của đất; ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm, tăng chi phí sản xuất.

Ba là, thiếu nước tưới do mùa khô kéo dài, lượng mưa giảm; hệ thống thủy lợi nhỏ lẻ, phân tán, hiệu quả thấp, thêm vào đó là việc quản lý nguồn nước chưa hợp lý. Đây cũng là khó khăn, thách thức không hề nhỏ đòi hỏi các tỉnh khu vực Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng phải có những giải pháp thích đáng nhằm sớm khắc phục tình trạng này, bảo đảm nước tưới cho cây trồng trong mùa khô kéo dài gần 6 tháng từ tháng 11 tới tháng 4 năm sau.

Bốn là, cơ sở hạ tầng nông thôn còn hạn chế do việc đầu tư chưa đồng đều, chưa tập trung và tỉnh chưa có quy hoạch hợp lý cho phát triển tổng thể nông nghiệp. Đây là hạn chế lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng phát triển nông nghiệp quy mô lớn. Hạ tầng hạn chế làm cho chi phí vận chuyển tăng, sản phẩm khó tiếp cận thị trường và hạn chế phát triển các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, khó thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, quy mô lớn.

Năm là, tình trạng thiếu lao động chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, tuần hoàn, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do thanh niên nông thôn di cư tìm việc làm ở các thành phố; nông nghiệp chưa thực sự hấp dẫn, giá cả thiếu ồn định nên thu nhập thấp; nông dân không có nhiều cơ hội đào tạo, nâng cao kỹ năng chuyên sâu.

Sáu là, phần lớn các mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản được hình thành tự phát; trách nhiệm, sự ràng buộc giữa các thành phần khi tham gia liên kết chưa thực sự chặt chẽ cả trên phương diện kinh tế lẫn phương diện pháp lý nên chưa thực sự bền vững; các tổ chức, cá nhân tham gia còn vấp phải khó khăn về nguồn lực tài chính đầu tư, kinh nghiệm tổ chức sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhưng nhìn chung, chất lượng hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp, trang trại ngày càng thực chất và hiệu quả hơn góp phần phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, giá cả vật tư nông nghiệp tăng cao tạo gánh nặng kinh tế cho nông dân, ở nhiều vùng, nông dân sử dụng các loại vật tư kém chất lượng để thay thế. Hay tình trạng thiếu liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ; thị trường tiêu thụ chưa ổn định giá cả biến động mạnh; chính sách hỗ trợ chưa đủ mạnh, thiếu tính liên tục, ổn định.

3. Giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững tại tỉnh Đắk Lắk

Thứ nhất, tỉnh Đắk Lắk cần quan tâm thực hiện quy hoạch nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững hiệu quả, phát huy lợi thế của từng địa phương trong toàn tỉnh. Quy hoạch phát triển nông nghiệp cần chú trọng quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; bố trí sử dụng đất sản xuất nông nghiệp và quy hoạch cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; quy hoạch phát triển giống, cây trồng, vật nuôi chủ lực phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và môi trường của địa phương.

Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong giai đoạn phát triển mới, về cơ cấu lại nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh; về các mục tiêu, định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp của tỉnh trong giai đoạn mới; xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách, quy định của pháp luật, phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn, theo trọng tâm, trọng điểm; tổ chức tuyên truyền, giáo dục, xây dựng mô hình, hình thành lực lượng tư vấn, xây dựng chương trình để từng bước chuyển đổi sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt, cần chú trọng nâng cao nhận thức cho nông dân – chủ thể quan trọng của nền nông nghiệp nhằm góp phần giúp họ từng bước tiếp cận với khoa học, kỹ thuật sản xuất mới, hiện đại, hiệu quả; thực sự là những người lao động nông nghiệp chuyên nghiệp, có thu nhập cao trên chính vùng đất của mình. Để làm được điều này, cần tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, hướng dẫn và học tập kinh nghiệm từ những mô hình nông nghiệp bền vững đã được triển khai hiệu quả, phù hợp với địa phương.

Thứ ba, đầu tư phát triển hạ tầng cho ngành Nông nghiệp của tỉnh, bao gồm các hạng mục, như: đầu tư cho thủy lợi, đê điều, hệ thống điện, đường giao thông, kho tàng, bến bãi… Việc đầu tư cơ sở hạ tầng nông nghiệp được xem là có tác động kép, không chỉ là động lực để chuyển dịch sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, tập trung, quy mô lớn, mà còn kéo theo sự thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Thực tế cho thấy, những địa phương nào mà cơ sở hạ tầng yếu kém thì khó thu hút các nhà đầu tư, ngược lại, những địa phương, khu vực nào có hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ thì sẽ thu hút được nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Để làm tốt việc đầu tư phát triển hạ tầng cho ngành Nông nghiệp, tỉnh Đắk Lắk cần tiếp tục chỉ đạo sở, ngành liên quan và các địa phương thực hiện lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới… để đầu tư xây dựng hệ thống hồ đập, kiên cố hóa giao thông, kênh mương. Tích cực phối hợp với các bộ, ngành trung ương, các nhà tài trợ để vận động, thu hút các nguồn vốn ODA, vốn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ. Mở rộng hợp tác với các tổ chức tài chính lớn, như: WB, ADB, Keximbank, JICA, KOICA,… nhằm thu hút vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng các hình thức hợp tác công tư trong phát triển sản xuất và xây dựng kết cấu hạ tầng. Thu hút các nguồn lực khác trong Nhân dân, các doanh nghiệp để phát triển sản xuất nông nghiệp.

Thứ tư, xây dựng và triển khai có hiệu quả các chính sách đột phá trong phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Tập trung rà soát các cơ chế, chính sách hiện hành bảo đảm phù hợp với các chủ trương, định hướng, nhiệm vụ của kế hoạch để đề xuất điều chỉnh và hướng dẫn tổ chức triển khai có hiệu quả; nghiên cứu những cơ chế, chính sách mới tạo động lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2021 – 2030, định hướng 2024; tiếp tục hoàn thành xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án trọng tâm, trọng điểm của ngành nhằm phục vụ sản xuất – kinh doanh nông nghiệp hàng hóa, quy mô lớn để xuất khẩu; thường xuyên báo cáo việc triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách; từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn để nghiên cứu điều chỉnh phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp phát triển sản xuất – kinh doanh.

Thứ năm, tăng cường ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó cần ưu tiên ứng dụng công nghệ mới, nhất là các công nghệ phục vụ cho chuyển đổi số trong nông nghiệp ở các khâu then chốt, có thể làm ngay, như truy xuất nguồn gốc, giao dịch và tiêu thụ nông sản, ứng dụng kỹ thuật hiện đại nhằm khắc phục tình trạng thiếu nước tưới vào mùa khô, từng bước cải tạo đất. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng; tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống số hóa cơ sở dữ liệu của đơn vị, lĩnh vực được giao, công cụ phục vụ chuyển đổi số trong nông nghiệp nông thôn để tạo cơ sở dữ liệu của ngành hướng đến kết nối đồng bộ, liên thông với các cơ sở dữ liệu quốc gia, lĩnh vực phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước và hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp; tập trung xây dựng các đề án, kế hoạch chuyển đổi số ngành Nông nghiệp, phát triển các mô hình nông nghiệp thông minh ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp nông thôn. Xây dựng và tổ chức triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã chuyển đổi số. Tăng cường đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng chính phủ điện tử. 

Thứ sáu, thu hút các nguồn lực để phát triển ngành nông nghiệp, tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ tác động của thiên tai, dịch bệnh. Tích cực huy động các nguồn lực xã hội hóa đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn từ các thành phần kinh tế, bao gồm cả đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội hiệu quả vào phát triển kết cấu hạ tầng và cung ứng dịch vụ công; đồng thời, nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước. Tăng cường phân cấp đi đôi với giám sát, kiểm tra và đổi mới toàn diện thể chế quản lý đầu tư công, thẩm định, đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư công; tiếp tục cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tập trung cho các đột phá chiến lược phát triển ngành, nhất là hạ tầng trọng yếu. Ưu tiên đầu tư hạ tầng phục vụ cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, nâng cao năng lực phòng chống thiên tai, hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản và tưới tiết kiệm nước cho cây trồng cạn; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch tăng cường và mở rộng hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế để tranh thủ, thu hút nguồn vốn, phát triển thị trường, khoa học – công nghệ và đầu tư của nước ngoài phục vụ cho các mục tiêu phát triển của ngành.

Ngoài ra, tỉnh Đắk Lắk cần tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn kết hữu cơ giữa phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới. Việc cơ cấu nông nghiệp phải tập trung cơ cấu lại đầu tư công và dịch vụ công, tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành các chuỗi giá trị nông sản dựa trên lợi thế so sánh của tỉnh Đắk Lắk; chính quyền các địa phương cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm mạnh rào cản về điều kiện kinh doanh nông nghiệp, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, cũng như cơ chế, chính sách hỗ trợ để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Tập trung thúc đẩy hoạt động liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, với vai trò dẫn dắt kinh tế nông thôn thuộc về doanh nghiệp; tổ chức lại sản xuất nông nghiệp dưới nhiều hình thức trong đó chủ trọng hình thức hợp tác, tổ chức liên kết, có sự tham gia sâu rộng của doanh nghiệp, trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp và hiệu quả, áp dụng chính sách hỗ trợ đột phá để khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác nhằm phát triển hợp tác xã theo hướng hình thành chuỗi giá trị nông sản hàng hóa.

4. Kết luận

Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững là một hướng đi quan trọng nhằm góp phần nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp, bảo vệ môi trường và cải thiện đời sống người dân. Đắk Lắk, với lợi thế về đất đai và khí hậu, có tiềm năng phát triển các mô hình nông nghiệp bền vững như trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi kết hợp. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu bền vững, tỉnh cần chú trọng cải tiến công nghệ, ứng dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững, hiện đại, đáp ứng yêu cầu mới. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng với sự quyết tâm của các cấp, ngành Nông nghiệp và sự đầu tư đúng đắn, quy hoạch và chiến lược phát triển hợp lý, trong thời gian tới, Đắk Lắk sẽ phát huy một cách hiệu quả những tiềm năng, lợi thế trong phát triển nông nghiệp trở thành mô hình mẫu về nông nghiệp bền vững trong khu vực Tây Nguyên.

Chú thích:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2, 4. Văn phòng điều phối nông thôn mới tỉnh Đắk Lắk (2024). Tài liệu phục vụ Hội nghị kết nối, giao thương, tiêu thụ sản phẩm OCOP tỉnh Đắk Lắk với tỉnh Hòa Bình.
3. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk (2024). Báo cáo tình hình, kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh năm 2024 và xây dựng Nghị quyết về nhiệm vụ năm 2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Động lực để hợp tác xã nông nghiệp phát triển bền vững. https://baodaklak.vn/kinh-te/202404/dong-luc-de-hop-tac-xa-nong-nghiep-phat-trien-ben-vung-79621b3
2. Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới và triển vọng của Việt Nam. https://tapchinganhang.gov.vn/xu-huong-phat-trien-nong-nghiep-huu-co-tren-the-gioi-va-trien-vong-cua-viet-nam.htm
3. Nông nghiệp xanh – dòng chảy mới của thị trường. https://bnews.vn/nong-nghiep-xanh-dong-chay-moi-cua-thi-truong/254792.html
4. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững đến năm 2030.
5. Thúc đẩy nền nông nghiệp xanh tại Việt Nam. https://dangcongsan.vn/kinh-te-va-hoi-nhap/thuc-day-nen-nong-nghiep-xanh-tai-viet-nam-610377.html
6. Phát triển nông nghiệp Việt Nam: Vấn đề đặt ra và một số giải pháp. https://tapchicongsan.org.vn/kinh-te/-/2018/828917/phat-trien-nong-nghiep-viet-nam-van-de-dat-ra-va-mot-so-giai-phap.aspx