TS. Nguyễn Thị Phượng
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
ntphuong@hcmute.edu.vn
(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Tư tưởng đó phản ánh bản chất, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết làm rõ những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế; một số kết quả đạt được về quan hệ ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian qua. Từ đó, tiếp tục giương cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Từ khoá: Tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển đất nước, quan hệ quốc tế, kỷ nguyên mới.
1. Đặt vấn đề
Trong hệ thống di sản lý luận, thực tiễn mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tư tưởng về quan hệ quốc tế chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế phản ánh giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Ở đâu thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh ở đó có sự đoàn kết, hợp tác quốc tế, đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất công, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại thoát khỏi sự khổ đau, đè nén của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam”1. Những tư tưởng của Người về quan hệ quốc tế đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, đặt cơ sở, nền móng để Đảng, Nhà nước hoạch định quan điểm, đường lối, chính sách ngoại giao đúng đắn, phù hợp để huy động các nguồn lực bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế được hình thành, phát triển từ rất sớm bắt đầu từ khi Người rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh ngày nay) ngày 5/6/1911 ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc. Cuộc hành trình qua 3 đại dương, 4 châu lục, đi qua gần 30 nước, quãng đường di chuyển vô cùng gian nan, vất vả, khổ cực; chính trong hòan cảnh khắc nghiệt đó đã giúp Người hòa mình vào thế giới, phát hiện ra nhiều điều của phong trào cách mạng thế giới.
Quá trình bôn ba thế giới tìm đường cứu nước cho dân tộc cũng đồng thời là quãng thời gian Người nghiên cứu, khảo nghiệm, tìm tòi, khám phá và phát hiện ra những bí mật quan trọng dẫn đến sự thất bại của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc là thiếu sự ủng hộ, giúp đỡ của Nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới, không đặt cách mạng nước mình vào dòng chảy của cách mạng thế giới. Vì vậy, Người đã chỉ ra một trong những nguyên nhân cơ bản, chủ yếu dẫn đến sự suy yếu của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước phương Đông chống lại chủ nghĩa thực dân là thiếu sự liên minh, liên kết với cách mạng thế giới.
Người chỉ rõ: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập. Không giống như các nước phương Tây, các dân tộc phương Đông không có quan hệ và tiếp xúc giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”2. Những hoạt động thực tiễn của Người trong những năm tháng hoạt động ở nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc gắn kết cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Năm 1919 các nước đế quốc thắng trận họp ở Vec-xây phân chia lại thị trường vừa mới giành được, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhân dân An Nam gửi tới hội nghị bản yêu sách gồm 8 điểm, trong đó có những quyền cơ bản như: bình đẳng, tự do, độc lập. Tuy bọn đế quốc không để ý đến bản yêu sách nhưng đã gây một tiếng vang lớn, các nước đế quốc bắt đầu để ý tới Nguyễn Ái Quốc và nhân dân An Nam. Người chỉ rõ: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa”3.
Một là, mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở các nước đi xâm lược với vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa gắn bó khăng khít, không tách rời nhau. Sự thắng lợi của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược với giai cấp vô sản ở các nước bị xâm lược là thắng lợi chung của giai cấp vô sản thế giới. Cho nên mỗi bước thắng lợi của giai cấp vô sản nước này chống lại sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc là sự bổ sung, hỗ trợ, tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản ở mỗi nước.
Hai là, cách mạng vô sản ở mỗi nước nhận được sự đoàn kết, ủng hộ của cách mạng vô sản các nước; khi ấy cuộc đấu tranh không bị đơn lẻ, có sự đồng hành, ủng hộ trên mọi phương diện, tạo thành sức mạnh tổng hợp, đưa cuộc đấu tranh cách mạng vô sản ở mỗi nước đi đúng quỹ đạo, giành thắng lợi toàn bộ, thiết lập nên chính quyền công -nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Mục đích của việc xác lập, mở rộng quan hệ quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tạo thêm lực lượng, sức mạnh cho cách mạng Việt Nam. Vì vậy, trong quan hệ quốc tế, Người đã đề ra hệ thống những vấn đề có tính nguyên tắc để bảo đảm cho quan hệ quốc tế thực chất đi vào chiều sâu, không phải là sự vụ lợi, quan hệ nhất thời vì một mục đích, ý đồ nào đó.
Người nhấn mạnh: “Trong quan hệ với các nước khác, chính sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rõ ràng trong sáng: đó là một chính sách hòa bình và quan hệ tốt”4. Rõ ràng, đây là quan điểm, tư tưởng rất nhân văn, hòa hiếu thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ ngày lập quốc cho đến hiện nay. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm xây dựng một thế giới hòa bình, không có chiến tranh để mỗi người được hưởng thụ đầy đủ quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Chính vì vậy, trong quan hệ quốc tế một nguyên tắc mang tính bất di bất dịch, không bao giờ được phép lơ là, mất cảnh giác là tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc; chỉ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau mới tạo ra những mối quan hệ mới, mới thiết lập được mối quan hệ vô tư, trong sáng vì sự phát triển ổn định, bền vững của mỗi nước. Người nhấn mạnh: “Chính phủ buộc Pháp phải công nhận nền độc lập của nước ta. Được thế, về vấn đề khác cũng có thể giải quyết rất dễ dàng”5.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy: ngay từ khi mới ra đời Việt Nam là quốc gia thống nhất, ông cha ta đã không chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược, bằng nghệ thuật quân sự đặc sắc đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn, đẩy lùi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi lãnh thổ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Với bản chất xâm lược, hiếu chiến, phản động chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc không bao giờ từ bỏ âm mưu xâm lược, thôn tính các nước kém phát triển. Thực dân Pháp đến xâm lược nước ta đã vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của Nhân dân; được sự hậu thuẫn, cấu kết với giai cấp phong kiến thực dân Pháp đã thực hiện chính sách chia để trị cho dễ bề cai trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đấu tranh cách mạng, tiến hành cuộc phản kích, đánh bại mọi chiến lược chiến tranh của quân xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”6.
Trong quan hệ quốc tế vấn đề được Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm, chú trọng, đó là giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, thương lượng trên cơ sở luật pháp quốc tế và đạo lý của mỗi quốc gia, dân tộc. Đây là vấn đề rất quan trọng, thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật và đề cao quyền sống của con người, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của mọi sự phát triển. Trong bất luận mọi điều kiện, hòan cảnh nào Hồ Chí Minh đều tìm mọi cách ngăn cản để không xảy ra một cuộc chiến tranh. Để chiến tranh xảy ra là điều không mong muốn, người phải hứng chịu nhiều nhất là người dân, đất nước loạn lạc, ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện các chính sách xã hội khác. Người chỉ rõ: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Tôi biết là nhân dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách”7. Điều này thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế hiện nay và cũng là ước nguyện, mong muốn của mọi người trên trái đất này, không bao giờ mong muốn có chiến tranh xảy ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra trong quan hệ quốc tế các nước không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đây chính là vấn đề có tính nguyên tắc không bao giờ thay đổi. Mỗi nước có thể chế chính trị khác nhau, có đường hướng phát triển, lựa chọn con đường phát triển của riêng mình, phù hợp với đặc điểm, trình độ, văn hoá truyền thống của quốc gia, dân tộc đó. Việc mở rộng quan hệ quốc tế là nhu cầu, nguyện vọng của mỗi nước, không được áp đặt hoặc can thiệp vào nội bộ công việc của mỗi nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng tôi muốn gửi thế giới lời này: Là ước mong tất cả các người dân chủ trên thế giới đoàn kết với nhau để bảo vệ cho nền dân chủ trong các nước nhỏ cũng như trong các nước lớn”8. Những công việc của mỗi nước do chính nước đó quyết định, không được dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ vào sự định hướng, hỗ trợ, giúp đỡ từ nước khác. Một nước có độc lập, chủ quyền thì cũng phải độc lập về đường lối chính trị, đường lối ngoại giao. Đó chính là cơ hội, điều kiện để quốc gia, dân tộc đó phát triển, khẳng định được vị thế, uy tín trong cộng đồng quốc tế.
Đối với dân tộc Việt Nam, luôn tôn trọng và nhất quán quan điểm không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước. Tuy nhiên, ở những nội dung quan trọng mang tính quốc tế, đe dọa đến an ninh, hòa bình thế giới, Việt Nam đều thể hiện rõ quan điểm, lập trường thái độ trước sau như một lên án những hành vi can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nước này đối với nước khác; ủng hộ việc lựa chọn phương án hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển trong giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng, tranh chấp về chủ quyền, biên giới, lãnh thổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện, hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: Tôn trọng sự hòan chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và chung sống hòa bình”9. Đây chính là thông điệp của lịch sử mà Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhắn nhủ, gửi đến thế giới vì một nền hòa bình thực sự, không có sự can thiệp vô nguyên tắc của bất kỳ quốc gia, dân tộc nào công việc nội bộ của mỗi nước.
Việc mở rộng quan hệ quốc tế theo Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm hướng đến sự bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Với nhãn quan chính trị năng động, nhạy bén và hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng đã giúp cho Người có những nhận định, đánh giá đúng đắn, chính xác về mục đích cuối cùng của quan hệ quốc tế, đó chính là hai bên cùng có lợi, cùng góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mỗi nước có trình độ phát triển khác nhau và có thể chế chính trị khác nhau, nhưng đều lấy điểm tương đồng, chung thống nhất để hợp tác, phát triển đó chính là lợi ích của mỗi bên. Khó khăn, rủi ro cùng chia sẻ, lợi ích thì phải hài hòa trong quan hệ quốc tế, không có sự tính toán thiệt, hơn, được mất ở đây mà phải lấy đại cục làm mục tiêu cơ bản, chủ yếu để hướng đến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta. Vì lợi ích của nhân dân lao động khắp thế giới là nhất trí”10. Sự bình đẳng và hai bên cùng có lợi thể hiện ở mọi lĩnh vực, hoạt động trong quan hệ quốc tế, không phải là sự bình đẳng và cùng có lợi ở một khía cạnh, lĩnh vực cụ thể, mà đó là sự bình đẳng và cùng có lợi một cách toàn diện, bao trùm mọi hoạt động của đất nước. Điều này đã thể hiện rõ ở đường lối, chính sách đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thiết lập, mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều nước trên thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới yêu chuộm hòa bình trong cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trên các mặt trận. Thực hiện đường lối ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã hòa vào dòng chảy của cách mạng thế giới, là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân, đế quốc góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận, thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời, bổ sung và phát triển nhiều nội dung quan trọng về quan hệ quốc tế: mục đích, bản chất của quan hệ quốc tế, qua đó, nâng tầm vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến thắng lợi vẻ vang ngày nay”11.
3. Ý nghĩa đối với việc phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình
Quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ đối ngoại, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã hoạch định, xác lập đường lối đối ngoại phù hợp, hiệu quả ở mỗi giai đoạn, thời điểm thích hợp, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới. Đảng ta đã xác định đường lối ngoại xuyên suốt là: “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”12; “không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt că cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”13.
Việc mở rộng quan hệ ngoại giao của nước ta với các nước trên thế giới đạt được nhiều kết quả quan trọng trên nhiều phương diện: thu hút được nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp, công ty lớn của nước ngoài về Việt Nam; nhiều hợp đồng hợp tác trên tất cả các lĩnh vực được ký kết, đi vào hoạt động, đặc biệt trong giáo dục, đào tạo, nguồn lao động, khoa học công nghệ có bước phát triển nhảy vọt về chất. Nhiều dự án, chương trình lớn giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế, các nước lớn diễn ra thường niên đã cung cấp cơ sở hạ tầng, nguồn vốn để phát triển. Việt Nam tham gia hầu hết các diễn đàn kinh tế, chống biến đổi khí hậu của thế giới; là thành viên có trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong bảo vệ nhân quyền, duy trì hòa bình thế giới.
Đến nay, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 9 quốc gia (tính đến tháng 11/2024). Đảng ta đã có quan hệ “với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính… làm sâu sắc quan hệ với 193 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt… Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức nhân dân cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực với 1.200 tổ chức nhân dân và đối tác nước ngoài”14.
Hoạt động ngoại giao đã góp phần quan trọng vào việc quảng bá, giới thiệu hình ảnh đất nước con người Việt Nam ra thế giới thông qua các hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; tổ chức các sự kiện văn hoá, thể thao, du lịch, hội thảo, toạ đàm khoa học, giáo dục, đào tạo… một Việt Nam thân thiện, mến khách, an toàn, tin cậy đã được nhiều quốc gia, dân tộc tìm đến, lựa chọn là điểm đầu tư, điểm đến hấp dẫn trong một thế giới đầy biến động, phực tạp và khó lường hiện nay, như đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: “ngoại giao đã góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới, nhờ đó vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế”15.
Đất nước đang đứng trước ngưỡng của của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, với nhiều điều kiện thuận lợi đã được xây dựng sau gần 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, thế và lực của đất nước được giữ vững, củng cố, tăng cường trên trường quốc tế. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sánh vai cường quốc năm châu”16.
4. Một số biện pháp hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc tế
Một là, quán triệt và thực hiện nghiêm túc tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế.
Mở rộng quan hệ quốc tế là nội dung, biện pháp quan trọng để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, tăng thêm các nguồn lực từ bên ngoài để đánh thức, khơi dậy nguồn lực nội sinh bên trong của đất nước. Các cơ quan, ban, ngành Trung ương đến địa phương quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế; đồng thời vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Trên cơ sở những quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương cần xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể cho từng lĩnh vực, ngành nghề để thiết lập quan hệ đối ngoại, hợp tác, phát triển đúng đắn, phù hợp, hiệu quả.
Phát huy sức mạnh của các tổ chức, lực lượng trong tìm kiếm nhà đầu tư, nhà kinh doanh ngoài nước trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng; nắm vững nguyên tắc trong quan hệ ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”; trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”17.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động ngoại giao trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, trong đó có hoạt động ngoại giao. Mọi hoạt động ngoại giao của các tổ chức, cá nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp. Chỉ trên cơ sở đó, mới bảo đảm cho hoạt động ngoại giao đi đúng hướng, mục đích chính trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin; bản chất, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Các hoạt động đối ngoại phải bám sát những quan điểm, đường lối của Đảng, phục vụ hữu ích cho sự phát triển đi lên của quốc gia. Có như vậy, mới huy động được các nguồn lực từ bên ngoài một cách đúng đắn, phù hợp, hiệu quả, đem lại cơ hội, điều kiện tốt nhất để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, nhân dân có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, trong quan hệ đối ngoại luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết.
Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Nguyên tắc nhất quán của đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc. Lợi ích cao nhất của quốc gia – dân tộc chính là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển, không ngừng nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước”18. Với tinh thần đó, mọi hoạt động ngoại giao, tham gia vào các diễn đàn kinh tế, xã hội, biến đổi khí hậu, nhân quyền bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia – dân tộc, đây là vấn đề có tính nguyên tắc, bất di bất dịch không bao giờ được ngả nghiêng, dao động, không cho phép bất kỳ ai làm phương hại đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Không ngừng củng cố, bồi đắp truyền thống yêu nước, lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc; hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam; qua đó, làm cho các chủ thể, lực lượng khi tham gia vào các hoạt động ngoại giao phải quán triệt và lan toả truyền thống, khí phách đó vào nhận thực, hành động thiết thực, cụ thể, làm rạng rỡ hơn tinh thần Việt Nam, khí chất Việt Nam trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Lợi ích quốc gia – dân tộc phải được coi là vấn đề có tính nguyên tắc, là dĩ bất biến, là vấn đề sống còn của dân tộc trong hoạt động ngoại giao. Hoạt động ngoại giao là nhằm phục vụ cho lợi ích quốc gia – dân tộc, làm cho quốc gia – dân tộc mạnh lên bằng chính thực lực, ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc.
Các hoạt động ngoại giao phải bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được làm chủ cuộc sống, được hưởng những điều kiện tốt nhất trong kỷ nguyên mới.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao có phẩm chất, năng lực đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao của quá trình phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Đảng ta khẳng định: “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”19. Với tinh thần này, đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao phải giỏi về kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ, thật sự tinh tường, am hiểu văn hoá truyền thống của các nước sở tại, kịp thời quảng bá, giới thiệu hình ảnh, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế; đồng thời nắm chắc luật pháp quốc tế; từ đó kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước đề ra các chủ trương, biện pháp ngoại giao phù hợp, hiệu quả.
Hiện nay, trước mặt trái của cơ chế thị trường, một số cán bộ, đảng viên, công chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo ở các bộ phận, lực lượng trong ngày ngoại giao đã không giữ được mình, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Thực tiễn đó, đặt ra cho cán bộ ngoại giao vấn luôn giữ mình ở mọi lúc, mọi nơi, đặt lợi ích của Đảng, của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Không ngừng tự giác tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống, tránh xa những cám dỗ vật chất, tiền tài, danh vọng; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, giữ gìn đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ làm công tác ngoại giao, nhất là những đại sứ đại diện cho dân tộc ở ngoài nước phải là một sứ giả của hòa bình, thân thiện, gần gũi, là tiếng nói của quốc gia, truyền đến bạn bè quốc tế một Việt Nam đổi mới, hội nhập và phát triển, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của thế giới.
Đảng đã nhấn mạnh: “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị – kinh tế quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”20. Mỗi cán bộ ngoại giao phải thật sự năng động, sáng tạo, mưu lược trong mọi hoạt động, nhất là trong tiếp xúc, tiến hành các hoạt động hợp tác, ký kết với các nước, các tổ chức quốc tế.
Bốn là, tiếp tục bổ sung, hòan thiện thể chế về quan hệ ngoại giao trong ký nguyên mới, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Một trong những khâu đột phá được Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Tổng Bí thư Tô Lâm đặc biệt nhấn mạnh tập trung tháo gỡ những điển nghẽn về thể chế ở tất cả các lĩnh vực để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, khơi dậy các nguồn lực bên trong và bên ngoài. Do đó, trong hoạt động ngoại giao cũng cần ra soát, đánh giá một cách căn cơ, đầy đủ những văn bản hướng dẫn của ngành ngoại giao các cấp còn phù hợp không, nếu không phù hợp cần thay thế bằng văn bản mới; những nội dung của văn bản cũ có những nội dung còn phù hợp cần điều chỉnh, bổ sung cho hợp lý trong bối cảnh mới. Đề cao tinh thần, trách nhiệm của người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị ngành ngoại giao trong thực hiện sắp xếp tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu năng, hiệu quả.
Có cơ chế, chính sách đặc thù giữ cán bộ, đảng viên, công chức ngành ngoại giao giỏi, thông thạo nhiều thứ tiếng, có bản lĩnh, trình độ thực sự; hòan thiện những cơ chế song phương, đa phương trong quan hệ với các nước có trình độ, tiềm lực phát triển khác nhau, các tổ chức chính trị – xã hội, diễn đàn kinh tế để xác lập mức độ quan hệ, khả năng phát triển phù hợp với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Đảng ta khẳng định: “chủ động, thích ứng trước những biến chuyển của tình hình; tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các kênh và các cơ quan đối ngoại, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”21.
5. Kết luận
Đất nước đang đứng trước ngưỡng cửa bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm đã hành động mạnh mẽ, quyết liệt từ lãnh đạo, chỉ đạo đến tổ chức thực hiện các nội dung, mục tiêu, lộ trình bước đi của sự nghiệp phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế trong kỷ nguyên mới, tạo thành sức mạnh tổng hợp về mọi mặt để tăng tốc, bứt phá thực hiện thắng lợi quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội nói chung và ngành Ngoại giao nói riêng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế mãi soi sáng con đường chúng ta đi, là kim chỉ nam dẫn dắt, định hướng để cán bộ, đảng viên, công chức nói chung và ngành Ngoại giao nói riêng làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Chú thích:
1, 5, 6, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 329, 47, 280, 526.
2, 3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 284, 295.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 12.
8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 164.
9. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 12.
10. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 273.
11. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 417.
12, 19, 20, 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.101, 165, 164, 165.
13. Bộ Quốc phòng (2019). Bộ Quốc phòng Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.25.
14, 15, 17, 18. Nguyễn Phú Trọng (2023). Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 31, 37, 42, 46.
16. Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie.