Pháp luật về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

ThS. Lê Thị Lan Phương
Học viện Hành chính Quốc gia
Nguyễn Thành
Sinh viên lớp Luật 21B Học viện Hành chính quốc gia
Trần Thu Trà
Sinh viên lớp Luật 21A Học viện Hành chính quốc gia 
Lê Quang Thái 
Sinh viên lớp Thanh tra 21B Học viện Hành chính quốc gia 
Lê Thị Mai Anh
Sinh viên lớp Thanh tra 22A Học viện

(Quanlynhanuoc.vn) – Việt Nam cũng như mọi quốc gia trên thế giới luôn cố gắng bảo vệ chủ quyền không gian mạng bằng nhiều phương thức khác nhau. Song những nỗ lực đơn lẻ không thể nào tự chống chọi được với tất cả những đe dọa từ không gian mạng, do đó, các quốc gia cần đối thoại, hợp tác để có những giải pháp chung và hành động nhất quán. Bài viết làm rõ một số vấn đề chung về pháp luật, về quyền chủ quyền quốc gia trên không gian mạng: chỉ ra thực trạng quy định của pháp luật từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.

Từ khoá: An ninh mạng; chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; pháp luật; bảo vệ Tổ quốc; cách mạng công nghiệp 4.0.

1. Đặt vấn đề

Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời của một quốc gia. Do đó, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng phải được xem là quyền tối cao, tuyệt đối, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia đối với các vùng dữ liệu, thông tin cũng như các hoạt động trên không gian mạng do Nhà nước quản lý, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bằng hệ thống chính sách, pháp luật và các công nghệ phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc nghiên cứu về pháp luật chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là một nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. 

Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với việc xác lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng bằng nhiều nghị quyết, chỉ thị về lĩnh vực này. Ngày 25/7/2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và Nghị quyết số 30-NQ/TW về Chiến lược an ninh mạng quốc gia, các nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bảo vệ vùng “lãnh thổ đặc biệt” của quốc gia góp phần tạo ra hệ thống hoàn chỉnh trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Việc xem không gian mạng là “lãnh thổ đặc biệt”, có giá trị quan trọng trong việc xác lập đầy đủ hơn về chủ quyền quốc gia không phải chỉ mới xuất hiện mà là sự nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế cũng như phù hợp với quan điểm đường lối của Việt Nam.  

2Thực trạng ban hành các quy định pháp luật về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

Sự phát triển của công nghệ kết nối internet đã và đang mang lại nhiều giá trị tích cực, như: gắn kết cộng đồng, giao lưu công việc, kinh doanh, mang lại hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế và trên các lĩnh vực chính trị, xã hội… làm lu mờ khoảng cách địa lý trên không gian mạng giữa các quốc gia, tuy nhiên, điều đó tạo cơ hội cho các cá nhân, tổ chức có thể lợi dụng để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật mà khó bị xử lý. Theo báo cáo thống kê của Cybersecurity Ventures, trong năm 2023, thiệt hại bởi các vụ tấn công mạng trên thế giới là khoảng 8.000 tỷ USD (chiếm 8% GDP toàn thế giới)1.

Trước sự phát triển của kết nối internet và công nghệ – thông tin, từ năm 1994, một số học giả quốc tế đã đề cập đến mối quan hệ giữa “không gian mạng” và “chủ quyền quốc gia”; trong đó, một số ý kiến cho rằng chủ quyền quốc gia tồn tại trong không gian mạng vì có sự tồn tại của các kết cấu hạ tầng thiết yếu để không gian mạng hình thành và chủ quyền không gian mạng có thể được coi là sự nối dài về quy tắc lãnh thổ trong chủ quyền2;  chủ quyền quốc gia sẽ không đầy đủ nếu bỏ qua chủ quyền không gian mạng; không có chủ quyền không gian mạng, trật tự quốc tế không gian mạng sẽ bị đảo lộn và hỗn loạn; quyền và lợi ích của các bên tham gia trong không gian mạng sẽ không được bảo đảm3

Bảo vệ chủ quyền trên không gian đã và được nhiều quốc gia, tổ chức quan tâm và có nhiều chính sách nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của các cá nhân, chủ thể của mỗi quốc gia. Ngay từ năm 2001, Liên minh châu Âu (EU) đã thông qua Công ước Budapest về tội phạm mạng thiết lập khuôn khổ pháp lý chung cho công tác phòng, chống tội phạm mạng. Tiếp đó năm 2018, EU ban hành Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR) và đề ra Chiến lược thúc đẩy các tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu quốc tế. EU cho rằng, cần tập trung bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền kiểm soát dữ liệu của công dân EU trên lãnh thổ các quốc gia EU. Gần đây nhất, ngày 24/12/2024, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua Công ước Liên hiệp quốc về Tội phạm mạng (Công ước Hà Nội), Công ước tạo khuôn khổ pháp lý đầu tiên ở cấp độ toàn cầu cho không gian mạng, khẳng định yêu cầu phải có sự tham gia của tất cả các quốc gia trong phòng, chống tội phạm mạng, góp phần thu hẹp những khác biệt giữa pháp luật các nước, thiết lập cơ chế hợp tác chuyên trách, qua đó thúc đẩy hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên biên giới hiệu quả hơn, đồng thời tạo điều kiện cho nỗ lực chuyển đổi số của các quốc gia4.

Ở góc độ từng quốc gia, nhiều quốc gia đã ban hành các quy định pháp luật về chủ quyền trên không gian mạng của riêng mình. Luật An ninh mạng năm 2016 được Trung Quốc ban hành với trọng tâm là bảo vệ chủ quyền không gian mạng quốc gia, bảo vệ kết cấu hạ tầng thiết yếu, dữ liệu và bảo vệ thông tin cá nhân. Tháng 5/2019, Tổng thống Nga V. Putin ban hành Luật Chủ quyền internet nhằm bảo vệ chủ quyền trong không gian thông tin của Nga trước các mối đe dọa ngày càng tăng trên internet; bảo đảm hệ thống internet nội bộ của Nga hoạt động ổn định ngay cả khi bị ngắt kết nối toàn cầu do tấn công mạng. Luật An ninh mạng (năm 2015), Luật Yêu nước của Mỹ cũng quy định và định nghĩa về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng trong đó hướng đến các quy định chặt chẽ về bảo vệ dữ liệu, yêu cầu về quyền truy cập dữ liệu ở trong và ngoài quốc gia.

Theo WeAreSocial, tính đến tháng 01/2023, Việt Nam có 77,93 triệu người dùng Internet, tương đương với 79,1% dân số, Việt Nam cũng là mục tiêu thường xuyên nhất của các cuộc tấn công lừa đảo với tỷ lệ tấn công là 18,91%. Tỷ lệ gia tăng về hoạt động độc hại trên không gian mạng luôn ở mức tăng và trung bình mỗi năm tăng 60% – 75% so với cùng kỳ năm trước đó. Những hoạt động độc hại xâm phạm đến chủ quyền quốc gia, quyền và lợi ích của các chủ thể vẫn bị đe dọa nghiêm trọng6.

Nhận thức được những thách thức phi truyền thống này, Đảng và Nhà nước đã thực hiện việc xác lập và bảo vệ chủ quyền không gian mạng quốc gia. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng từng bước được bổ sung, hoàn thiện, như: Luật An ninh mạng năm 2018; Luật An toàn thông tin mạng năm 2018; Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2018; Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 25/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao năng lực phòng chống phần mềm độc hại; Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 04/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong không gian mạng; Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 18/10/2019 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị;… Đây là những văn bản quan trọng, tạo hành lang pháp lý cơ bản để các cấp, ngành, lực lượng, địa phương triển khai bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Cùng với đó hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước đối với các loại hình dịch vụ viễn thông, internet, cơ sở hạ tầng không gian mạng ngày càng được củng cố.

Nổi bật trong các văn bản quy phạm pháp luật này là Luật An ninh mạng năm 2018 quy định những nội dung cơ bản về an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm đến an ninh mạng; hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu có hành vi vi phạm. Luật An ninh mạng năm 2018 xác định rõ khái niệm không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Khái niệm không gian mạng quốc gia là không gian mạng do Chính phủ xác lập, quản lý và kiểm soát. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; tạo hành lang pháp lý nâng cao năng lực bảo vệ hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quan trọng của quốc gia góp phần bảo đảm chủ quyền an ninh trật tự và xây dựng môi trường không gian mạng an toàn, lành mạnh.

Trên thực tế để hoàn thiện và thực thi các văn bản quy phạm pháp luật về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng đòi hỏi cần giải quyết những thách thức:

Một là, đặc thù của không gian mạng gây khó khăn cho việc áp dụng các điều luật về chủ quyền quốc gia. Cụ thể hơn, thiết kế dựa trên nền tảng số và không lệ thuộc vào không gian lãnh thổ, pháp lý đã tạo điều kiện cho nguy cơ bị tấn công từ xa. Chính vì vậy, việc kiểm soát các tranh chấp, các cuộc tấn công trên không gian mạng nói chung và xâm phạm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nói riêng là một thách thức không nhỏ trong quá trình hoàn thiện luật pháp.

Hai là, những hạn chế về nguyên tắc chủ quyền trong pháp luật quốc tế đối với quan điểm ở mỗi quốc gia cũng đang là vấn đề bảo đảm bằng con đường pháp luật. Nguyên tắc chủ quyền trong pháp luật quốc tế đòi hỏi một loạt các quyền bao gồm: quyền của mỗi quốc gia đối với chủ quyền về lãnh thổ, quyền về vấn đề dân tộc tự quyết, các quyền về độc lập. Nguyên tắc này thường không rõ ràng trong việc xác định một quốc gia có vi phạm hoặc bị tấn công bởi các hình thức vi phạm hay không do sự phức tạp trong định nghĩa “chủ quyền’’ và đặc thù của không gian mạng. Ngoài ra, sự mâu thuẫn giữa các quốc gia trong việc xác định mức độ vi phạm chủ quyền trên không gian mạng cũng gây khó khăn trong việc đưa ra một nguyên tắc chủ quyền chung để đạt được sự đồng thuận quốc tế.

Ba là, sự bất đồng về nguyên tắc không can thiệp cũng là yếu tố quan trọng trong việc thống nhất các điều khoản quy định chung mang tính quốc tế để bảo đảm quyền chủ quyền không gian mạng. Điều này xảy ra bởi việc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác là một nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế có liên quan mật thiết đến hoạt động của các quốc gia trên không gian mạng.

Những thách thức này do một số nguyên nhân: (1) Khác biệt về hệ thống pháp luật. Mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật riêng biệt với các nguyên tắc, giá trị và ưu tiên khác nhau. Việc thống nhất một bộ luật chung đòi hỏi sự thỏa hiệp lớn và có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của một số quốc gia. (2) Quan điểm khác nhau về chủ quyền. Các quốc gia có quan điểm khác nhau về phạm vi và giới hạn của chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Điều này dẫn đến sự bất đồng về cách hiểu và áp dụng các nguyên tắc pháp lý. (3) Sự phát triển không đồng đều của công nghệ. Mức độ phát triển công nghệ của các quốc gia khác nhau dẫn đến sự khác biệt trong khả năng ứng dụng và tuân thủ các quy định pháp luật. (4) Tính chất xuyên biên giới của không gian mạng. Không gian mạng không có biên giới địa lý rõ ràng, điều này gây khó khăn trong việc xác định chủ quyền của một quốc gia đối với các hoạt động diễn ra trên mạng. (5) Tính ẩn danh. Các hoạt động phi pháp trên không gian mạng thường có tính ẩn danh cao, khiến việc truy tìm và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trở nên khó khăn.

3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

Thứ nhất, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế xuất phát từ nhận thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Việc bảo vệ vững chắc an ninh, an toàn quốc gia là một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội, phòng chống và ngăn chặn các cuộc tấn công mạng ngày càng diễn ra thường xuyên trên phạm vi toàn thế giới. Mỗi quốc gia và các quốc gia trên thể giới cần sớm đi đến thống nhất các quan điểm, định hướng, biện pháp nhằm bảo vệ các cá nhân, tổ chức trước các vấn đề an ninh mạng.

Thứ hai, cần chủ động tham gia thảo luận, đề xuất các biện pháp bảo đảm an ninh thông tin, an toàn và bảo đảm quyền chủ quyền quốc gia trên không gian mạng tại các diễn đàn quốc tế. Đây là cơ hội để Việt Nam đưa quan điểm của mình về vấn đề an toàn, an ninh mạng, quyền chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và thống nhất trên phạm vi quốc tế. Thông qua đó, hoạt động xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật của Việt Nam theo yêu cầu quốc tế, đồng thời công tác hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các quốc gia sẽ dễ triển khai, giúp tăng hiệu quả bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.

Thứ ba, các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước hay khu vực cần đưa nội dung bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng, coi đây là nội dung có tính chất quan trọng tương xứng với các vấn đề quốc phòng, an ninh biên giới quốc gia.

Thứ tư, từng bước cập nhật, hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về công tác quản lý nhà nước về an toàn thông tin, an ninh mạng, sẵn sàng ứng phó với các thách thức an ninh mạng, đặc biệt là tội phạm mạng. Bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân của Việt Nam và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

Thứ năm, hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo, nghiên cứu và phát triển công nghệ thông tin; an ninh, an toàn mạng; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm hình thành đội ngũ chuyên gia về công nghệ thông tin, an toàn an ninh mạng và tác chiến không gian mạng. Xây dựng mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các quốc gia và tổ chức cảnh sát quốc tế để tạo nguồn nhân lực trong phòng, chống kịp thời, hiệu quả tội phạm mạng. 

4. Kết luận

Trong thời đại số, không gian mạng đóng vai trò như con đường thiết yếu cho sự kết nối, liên lạc, trao đổi, giao tiếp với nhau qua một hệ thống mạng được kết nối toàn cầu. Do đó, vấn đề bảo đảm an toàn, an ninh mạng và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư là vô cùng quan trọng. Theo đó, cần sớm xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý cả mức độ quốc gia và quốc tế nhằm bảo vệ tốt hơn chủ quyền và quyền chủ quyền của mỗi quốc gia trên không gian mạng. Thúc đẩy liên minh, liên kết nhằm giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm mạng.

Chú thích:
1.  Thế giới mất 8.000 tỷ USD vì tấn công mạng. https://vneconomy.vn/the-gioi-mat-8-000-ty-usd-vi-tan-cong-mang.htm
2. P.W. Franzese (2009). Sovereignty in Cyberspace: Can it exist?, Air Force Law, tr. 1 – 42.
3. Lu Wei (2016). Persisting in Respect for the Principle of Cyber Sovereignty, Promoting the Construction of a Community of Common Destiny in Cyberspace. https://chinacopyrightandmedia.wordpress.com/2016/03/02/persisting-in-respect-for-the-principle-of-cyber-sovereignty-promoting-the-construction-of-a-community-of-common-destiny-in-cyberspace/
4, 5.  Chủ quyền không gian mạng: Lý thuyết, thực tiễn trong quan hệ quốc tế và những vấn đề đặt ra hiện nay. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/823954/chu-quyen-khong-gian-mang–ly-thuyet%2C-thuc-tien-trong-quan-he-quoc-te-va-nhung-van-de-dat-ra-hien-nay.aspx
6. Pháp luật về chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. https://daibieunhandan.vn/phap-luat-ve-chu-quyen-quoc-gia-tren-khong-gian-mang-post375605.html
Tài liệu tham khảo:
1. Quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng Internet của một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam. https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/08/16/quan-ly-nha-nuoc-ve-an-toan-thong-tin-mang-internet-cua-mot-so-quoc-gia-tren-the-gioi-va-kinh-nghiem-cho-viet-nam/
2. An toàn và bảo mật thông tin trong chính phủ số. https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/05/20/an-toan-va-bao-mat-thong-tin-trong-chinh-phu-so/
3. An ninh thông tin ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay – Vấn đề đặt ra và giải pháp.https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/05/12/an-ninh-thong-tin-o-viet-nam-trong-dieu-kien-hien-nay-van-de-dat-ra-va-giai-phap/